Ở Việt Nam thời hiện đại, hầu hết chúng ta đều biết đến Trầm Hương qua những câu chuyện, truyền thuyết được lưu truyền trong dân gian. Trong một số ghi chép lịch sử, hay trong lĩnh vực văn học của Việt Nam cũng có nhắc đến Trầm Hương nhưng không được đầy đủ và không có chiều sâu, khiến cho việc hiểu về nguồn gốc lĩnh vực này bị giới hạn.
Vậy lĩnh vực này được hình thành từ đâu? Có từ bao giờ? Điều gì khiến nó trở nên huyền bí? Mặc dù là lĩnh vực có từ lâu đời và khoa học hiện đại phát triển tại sao cho đến tận ngày nay sự phân loại và định hình tiêu chuẩn của nó vẫn chưa có sự thống nhất?. Trầm Hương vẫn là điều gì đó khó tả, mang sức hút kỳ diệu mỗi khi nhắc tới.
Để giải đáp phần nào đó, chúng tôi quyết định tập trung nghiêm túc làm về chủ đề Giải Mã Trầm Hương – Kỳ Nam để đi tìm câu trả lời thích đáng, thỏa mãn những khúc mắc và sự tò mò của chính bản thân mình cũng như những ai đang quan tâm đến lĩnh vực Trầm Hương.
Trong phần 1 này, để có cái nhìn rõ ràng hơn về sự hình thành và phát triển lĩnh vực Trầm Hương trên thế giới. Chúng tôi sẽ tổng hợp thông qua tham khảo các ghi chép lịch sử, thơ ca cổ xưa trên thế giới có nhắc về Trầm Hương (hoặc có liên quan).
Nội dung trong bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo về cái nhìn lịch sử, nền tảng. Chúng tôi mong rằng sẽ không có sự nhầm lẫn “đây là hướng dẫn phân loại, nhận định chất lượng”. Các ghi chép có thể đang nhắc tới Trầm Hương hoặc không. Theo góc nhìn cá nhân, các mô tả của người xưa trong một số thời điểm có thể đang không nhắc tới Trầm Hương, mà có thể là một loại cây thơm nào khác, hoặc đang nói về “Long Diên Hương”. Tùy vào từng giai đoạn lịch sử, nền văn hóa từng vùng, con người sẽ có tiêu chuẩn riêng về hương, khẩu vị, sự nhận định phân loại chất lượng riêng đối với Trầm Hương.
Thông tin tài liệu tham khảo được chúng tôi tổng hợp trên trang springer.com và các nguồn thông tin lưu trữ trên Google, cùng với sự hỗ trợ của TS. Nguyễn Ngọc Hiếu (PGD Trung tâm Ươm tạo và Đào tạo công nghệ cao Hòa Lạc, thuộc Bộ KH và CN).
Nội dung bản dịch được biên soạn lại có thể thiếu, chưa hoàn chỉnh, hoặc được hiểu chưa sát nghĩa. Một số phần đã được lược ý do không cần thiết và được bổ sung thuật lại dưới góc nhìn, ngôn ngữ cá nhân cho gần gũi dễ hiểu nhưng vẫn đảm bảo tính nguyên bản của nội dung.
Trong phần này Mộc Nhiên Phát KHÔNG PHẢI là tác giả. Với vai trò là người tìm kiếm tổng hợp, dịch tài liệu (thông qua google) và biên soạn thuật lại dưới ngôn ngữ, góc nhìn chuyên môn cá nhân. Chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp thêm một số thông tin hữu ích cũng như về lịch sử lĩnh vực Trầm Hương cho những ai quan tâm thông qua nội dung bài viết.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi mong nhận được nhiều câu hỏi để gợi ý, đồng thời cũng rất mong sự góp ý của đồng nghiệp, những người chơi sưu tầm có kiến thức đồng hành cùng, để Giải Mã Trầm Hương – Kỳ Nam được hoàn thiện đầy đủ hơn.
Sơ lược nguồn gốc lịch sử tên gọi, sử dụng và thương mại
1 – Khái niệm và nguồn gốc tên gọi đầu tiên của Trầm Hương
Ở thời cổ đại, khái niệm về Trầm Hương hay bất cứ loại gỗ có mùi thơm nào vẫn chưa được con người chú ý và nhắc đến. Nhưng vì đây là một trong những loại gỗ có mùi thơm đặc biệt nên được con người xếp vào loại “chất thơm thực vật”, được sử dụng trong các nghi lễ tâm linh, làm lễ vật, tạo hương thơm cho môi trường và được sử dụng như một dạng nước hoa trên cơ thể.
Khái niệm về chất thơm thực vật hoặc cây thơm thực vật là khái niệm đầu tiên được con người chú ý đến cho việc sử dụng mùi thơm từ thực vật. Một số loài cây trong “chất thơm thực vật” được người cổ đại biết tới và sử dụng bao gồm: Huyết Long, Đàn Hương, Trầm Hương, Quế, Long Não, Bách Xù, Nhựa Thông và nhiều loại cây, hoa, cỏ khác,…
Ban đầu, Trầm Hương được biết đến với tên gọi là Lô Hội. Trong một số văn bản cổ tiếng Phạn những năm 1493 – 1443 Trước Công Nguyên (TCN) của Ấn độ có nhắc đến Lô Hội Đen, là một trong những loại cây trong “chất thơm thực vật” được dùng để thưởng thức hương thơm, quà tặng dành cho giới quý tộc để thoa lên người. Lô Hội Đen được nhắc tới chính là Trầm Hương được khai thác miền Đông Ấn Độ.
Qua nhiều năm lịch sử hình thành và sử dụng, Trầm Hương có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo từng ngôn ngữ, phương ngữ của từng đất nước.
Ngôn ngữ | Trầm hương | Ý nghĩa (nếu có) | |
---|---|---|---|
Tiếng Phạn | agāru và aguru | gỗ không nổi | |
Prakrit | agaru và agalu tiếng Pali | ||
Người Hy Lạp | agallochum | ||
Tiếng Do Thái | aḥāloth | ||
Ả Rập | ālūwwa và ūd | ||
Mã Lai | gaharu | ||
Người Trung Quốc | chén xiāng hoặc kilam và bac | Thắp hương, hương Trầm, cây thơm | |
Tiếng Nhật | jinkoh | Thắp hương, hương trầm | |
Tiếng Bồ Đào Nha | aguila hoặc pao d’aguila | ||
Người Pháp | d’aigle | ||
Tiếng Anh | Eaglewood | cây đại bàng |
2 – Nguồn gốc sử dụng chất thơm thực vật (trong đó có Trầm Hương)
Chất thơm thực vật (bao gồm Trầm Hương) và gia vị là các yếu tố dễ thấy trong nhiều nền văn hóa và tập quán sinh hoạt của nhiều nước trong nhiều thế kỷ. Sự hiếm có cũng như khó tiếp cận của chúng là yếu tố giúp chúng trở nên có giá trị lớn, thần bí, thường dành cho giới quý tộc.
Ban đầu, người ta sử dụng chất thơm thực vật vào mục đích tâm linh, dâng kính lên các vị thần linh, thể hiện rõ địa vị tầng lớp. Bên cạnh đó, người ta còn ứng dụng chất thơm dưới dạng nước hoa nhằm kích thích sự quyến rũ giới tính. Về sau, con người phát hiện và ứng dụng chất thơm vào mục đích Y tế.
- Việc con người sử dụng các chất thơm thực vật để dâng kính được thể hiện thông qua các mô tả trên phù điêu thời Ai Cập Cổ đại, ghi chép này có từ khoảng thế kỷ 17 TCN.
- Trong các văn bản cổ xưa của tất cả các tôn giáo lâu đời trên thế giới như Hindu, Phật giáo, Kinh thánh Cơ Đốc, Hồi Giáo,… cũng có nhắc đến việc sử dụng chất thơm thực vật để phục vụ hoạt động tâm linh. Trong bốn kinh Vệ Đà của Ấn Độ Cổ đại cũng có mô tả chi tiết về việc sử dụng chất thơm thực vật. Những văn bản cổ xưa này có nguồn gốc từ Ấn Độ giáo, được viết khoảng năm 1500 – 1000 TCN.
- Ngoài ra, Trầm Hương cũng được người Ấn Độ và người Trung Quốc sản xuất làm giấy viết từ khoảng đầu năm 284. Loại giấy này có mùi thơm, bền, dai, không bị phân hủy khi ngâm trong nước và có màu đất sét vàng với các đốm giống như trứng cá.
3 – Nguồn gốc thương mại Trầm Hương
Hoạt động mua bán, trao đổi thương mại chất thơm thực vật (trong đó có Lô Hội) đầu tiên được diễn ra từ những năm 2500 – 2400 TCN, khi người Ai Cập Cổ đại di chuyển qua Biển Đỏ và bờ biển phía Đông Châu Phi để mua bán trao đổi hàng hóa sản xuất đổi lấy nô lệ, ngà voi, vàng (từ Ethiopia và Somalia), gia vị (từ Ấn Độ qua Yemen) và chất thơm (nhũ hương và mộc dược từ Yemen).
Nguồn gốc khai thác các loại Trầm Hương được con người biết tới chung với chất thơm đầu tiên là ở Ấn Độ. Điều này có liên quan đến hoạt động mua bán của người Ai Cập cổ những năm 2500 – 2400 TCN nhập khẩu chất thơm từ vùng Yemen (người Yemen cổ xưa có mối quan hệ mật thiết với văn minh Ấn Độ cổ 3000 TCN ). Ở Ấn Độ, Trầm Hương sinh trưởng nhiều ở miền Đông Ấn Độ.
Thông qua con đường tơ lụa và các tuyến đường giao thương trên biển, các thương nhân La Mã cổ xưa đã giúp Trầm Hương trở thành một mặt hàng có giá trị cao như đá quý và kim loại và giúp Trầm Hương có nguồn gốc từ các vùng, quốc gia ở châu Á được phân phối, sử dụng phổ biến trên thế giới.
Sơ lược lịch sử hình thành kiến thức phân loại chất lượng của Trầm Hương
Thời kì cổ xưa, người ta chưa xác định được chính xác Trầm Hương là một lĩnh vực riêng. Do nhu cầu sử dụng chất thơm phục vụ thưởng thức mùi hương của tầng lớp địa vị cao, nên các thương nhân chỉ tập trung tìm kiếm những loại gỗ mang đặc tính có mùi thơm làm hàng hóa. Cũng vì lẽ đó mà việc phân loại xác định riêng biệt các loại cây có mùi thơm cũng chỉ mơ hồ.
Về sau, người dùng bắt đầu chú ý đến hương vị riêng biệt của từng loài cây, điều này ảnh hưởng đến chất lượng lựa chọn tiêu dùng, nên cũng được các thương nhân lưu ý phân loại xác định từng cây có mùi thơm. Từ đó các loại cây trong chất thơm được tách biệt, phân loại rõ ràng.
Tùy vào từng nhu cầu sử dụng, từng loại cây sẽ có giá cả khác nhau. Sự phân loại các loại cây trong chất thơm cũng liên quan đến sự minh bạch trong thương mại.
Theo dòng chảy lịch sử, giá trị của loại gỗ này ngày còn liên quan đến ý nghĩa xã hội, chính trị, tôn giáo, kinh tế,… một cách sâu sắc, từ đó Trầm Hương được hình thành và xác định là một lĩnh vực riêng biệt. Các hệ thống phân loại chất lượng, mô tả đặc trưng bắt đầu hình thành đối với các loại cây thơm, trong đó có Trầm Hương.
Sau đây là một số mô tả phân loại chất lượng và nền tảng kiến thức đầu tiên về Trầm Hương được ghi chép lại của các nước có liên quan đến việc sử dụng, thương mại Trầm Hương trên thế giới
1 – Sự mô tả của người Ấn Độ
Người Ấn độ khoảng năm 320 TCN đã có những mô tả cơ bản cho một loại nhựa cây khác biệt trong chất thơm (để chỉ Trầm Hương): có màu đen hoặc đen có nhiều đốm và có các đốm loang lổ, nặng, mềm, nhờn, có mùi thơm xa và lâu, cháy chậm, khi đốt tỏa khói liên tục, có mùi đều, hấp thụ nhiệt và rất dính vào da, nhìn thấy dầu trên gỗ khi đốt.
2 – Sự mô tả của người Trung Quốc
Kiến thức về sự hình thành Trầm Hương từ con người được ghi nhận ở Trung Quốc sớm nhất là vào thế kỷ III. Người Trung Quốc quan sát và biết rằng việc chặt loại cây chất thơm này sẽ dẫn đến sự hình thành và thay đổi màu sắc của nhựa bên trong thân cây.
Thời kỳ nhà Tống (960 – 1270) cũng được xem là nơi hình thành hệ thống phân loại rõ ràng và đầy đủ sớm nhất về chất lượng nguồn gốc, và chất lượng từng dạng Trầm Hương. Cũng vào thời kỳ này, người Tống lựa chọn mua nguyên liệu làm nhang từ nước ngoài vì chất lượng tốt. Trầm Hương là loại gỗ được ưa chuộng nhất trong các loại gỗ làm nhang.
Nguyên liệu các nơi được ưa chuộng bao gồm miền Bắc và miền Nam Việt Nam (Phía bắc Việt Nam lúc bấy giờ là có tên gọi Đại Cồ Việt và phía Nam là đất nước Chăm Pa), Campuchia, Thái Lan, Bán đảo Malaysia, Indonesia, đảo Borneo (Kalimantan vùng đảo giữa ba quốc gia là Malaysia, Brunei, Indonesia), đảo Hải Nam (Lúc này vẫn là vùng đất của người dân tộc thiểu số) cũng như buôn bán với người Ả Rập.
Sự phân loại chất lượng thời nhà Tống được chia làm 4:
- Nguồn, khu vực
- Vị trí thân cây
- Loại chất
- Độ trưởng thành
Trong đó, chất lượng được quan tâm nhiều nhất là chất lượng độ trưởng thành của Trầm Hương (độ trưởng thành không phải là tuổi hay kích thước của cây mà là chất lượng phần nhựa cây và được khai thác từ cây còn sống hay cây đã chết bị mục nát). Mô tả phân loại chất lượng chỉ ra rằng Trầm Hương từ cây còn sống sẽ chất lượng hơn vì cho hương thơm mạnh và lâu bền hơn Trầm Hương mục nát.
Ngoài yêu cầu chất lượng hương thơm thì hình dạng sừng tê giác, con thoi, rể cũng được xem là tốt nhất.
Hai khu vực có chất lượng Trầm Hương tốt được mô tả của thời nhà Tống là: Việt Nam, Hải Nam bởi Trầm Hương 2 khu vực này có sự kết hợp của tất cả các loại và chất lượng trưởng thành cao.
Nhu cầu về mùi thơm thì Trầm Hương có nguồn gốc từ phía Bắc (tính từ địa lý thời Tống) là Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và Hải Nam được đánh giá là cao cấp hơn so với Trầm Hương từ Indonesia. Trầm Hương indonesia thường được dùng làm thuốc.
Một số mô tả về việc phân loại chất lượng, định lượng của các vùng từng được ghi chép của người Trung Quốc qua từng thời kỳ (thế kỷ 10-13)
- Miền Nam Việt Nam – Champa (được cho là vượt trội nhất).
- Các khu vực Trầm Hương có nguồn gốc từ miền Bắc Việt Nam, Campuchia, Hải Nam, Thái Lan, Java (vùng đảo Indonesia), Đông Sumatra (đảo lớn Indonesia), Langkasuka (vương quốc cổ của người Mã Lai) – Kuantan (Bán đảo Malaysia) là chất lượng nhất ( vì chúng có hàm lượng nhựa cao và chìm trong nước), hương thơm cũng tốt hơn tất cả các loại Trầm khác, các vị trí được cho là tốt là từ tâm gỗ và các nút ở nhánh cây.
- Trầm Hương từ Campuchia thường được cho là bị mục nát có màu vàng, đôi khi bị rỗng và thường ở dưới gốc.
- Một hệ thống đơn giản cho việc phân loại Trầm Hương được mô tả dựa trên mật độ chìm của nó khi thả vào nước. Ba lớp đã được định nghĩa: 1- chìm hoàn toàn, 2- một phần chìm, và 3- không chìm (nổi), độ chìm của Trầm Hương có liên quan đến độ nhiễm dầu chứa trong gỗ.
3 – Sự mô tả của người Trung Đông
Vào thế kỷ 16 (1542–1605) Người Trung Đông sơ chế Trầm Hương thông qua việc chôn cây để thúc đẩy sự mục nát của gỗ bao quanh các mảnh Trầm Hương. Chất lượng tốt nhất được mô tả là màu đen, nặng, không có xơ và có thể dễ dàng giã nát. Chất lượng tốt sẽ chìm dưới nước, chất lượng kém sẽ nổi.
Người Trung Đông thế kỷ 16 thường dùng Trầm Hương để điều chế nước hoa. Sự phân loại chất lượng thường được dùng thông qua các mô tả: màu xám, béo, dày, cứng, mọng nước, không có dấu hiệu nhỏ nhất của màu trắng, cháy lâu, ướt và ngọt.
4 – Sự mô tả của người Nhật Bản
Trầm Hương được phổ biến nhiều nhất ở Nhật Bản vào những năm cuối thế kỷ 16. Những người sành sỏi thời kì đó sẽ được bổ nhiệm vào việc xác định hương thơm làm tiêu chuẩn mùi hương. Có sáu loại hương thơm được công nhận:
- Kyara (Việt Nam): Có mùi nhẹ nhàng, vị pha chút đắng, đậm chất “quý tộc”, đẳng cấp.
- Rakoku (Thái Lan hoặc Lào): Mùi hăng tương tự như gỗ đàn hương, đắng.
- Mankaka (Malacca, Malaysia): Mùi nhẹ nhàng và lôi cuốn, không có đặc tính nào trong số 5 đặc tính (khẩu vị) này có thể dễ dàng phát hiện được.
- Manaban (không xác định): Chủ yếu là ngọt ngào. Sự hiện diện của dầu dính trên miếng mica thường là dấu hiệu cho thấy mùi thơm đó là manaban, mùi thô và không tinh tế.
- Sumotara (Sumatra, Indonesia): Chua ở đầu và cuối, đôi khi dễ bị nhầm lẫn với kyara.
- Sasora (Assam vùng Đông Bắc Ấn Độ): Chất lượng tốt thường bị nhầm với kyara, đặc biệt là khi nó mới bắt đầu cháy. Đôi khi nó nhẹ và mờ nhạt đến mức người ta tưởng mùi đã biến mất.
5 – Sự mô tả của người Châu Âu
Người Châu Âu phần lớn dựa vào các phân loại của người nước ngoài để nhận định. Vào thế kỷ 16 có một số phác thảo của người Châu Âu về Trầm Hương:
- Chất lượng cao nhất là Trầm Hương đen, đôi khi có màu lốm đốm, nặng, đặc, cứng và chứa đầy nhựa dễ cháy.
- Trầm Hương hạng hai được biết đến với cái tên Mondunum (được đặt theo tên của người Ấn Độ thị trấn trong Model) (Không có bất cứ ghi chép nào về sự mô tả cho chất lượng hạng hai này).
- Lớp ba không đen nhưng lại thơm cực kỳ mạnh mẽ, chứa đầy nhựa và được định nghĩa là chìm trong nước.
- Lớp cuối cùng được mô tả là có nhiều sắc thái đen khác nhau (không có màu trắng) và rất khó cháy.
Mô tả về hai Loại Trầm Hương khó cháy không giống như mô tả của người Trung Quốc và Nhật Bản. Có thể mô tả này nhầm lẫn hoặc ám chỉ cho loại gỗ khác ở Châu Âu bị nhầm với Trầm Hương.
Các giai đoạn từ thế kỷ thứ 3, thế kỷ 11, thế kỷ 13, thế kỷ 16 người Châu Âu đã có các ghi chép là: Cây sau khi chặt sẽ được chôn vào lòng đất một thời gian và sẽ được bán sau đó.
Người Châu Âu cho rằng việc chôn Trầm Hương sẽ giúp phân hủy lớp ngoài của gỗ, phần còn sót lại sẽ là những phần Trầm Hương tốt nhất. Thời gian để hoàn thành quá trình là 1 năm.
Một số người Châu Âu chỉ ra rằng Trầm Hương có mùi thơm hơn sau một thời gian chôn cất trong lòng đất so với gỗ không được chôn cất và được lấy trực tiếp từ cây.
Sự ưa thích đối với Trầm Hương được chôn ở châu Âu trái ngược với sở thích của người Trung Quốc về Trầm Hương được khai thác trên cây còn sống.
Tuy nhiên, cũng có một số người Châu Âu cho rằng không cần thiết phải chôn cất Trầm Hương chất lượng tốt, nhưng những loại chất lượng kém hơn có thể được áp dụng cách chôn để nó tốt hơn.
Vào đầu những năm 1500, người ta cho rằng loại Trầm Hương tốt nhất có nguồn gốc từ Đông Nam Việt Nam (Champa).
Vào giữa những năm 1700, có sự mô tả ba loại trầm hương nhựa từ miền Nam Việt Nam dựa trên độ trưởng thành và nồng độ nhựa :
- Kỳ Nam: Có chất lượng cao nhất, nhựa mềm đến mức có thể cạo bằng móng tay của con người.
- Trầm Hương: Gần như có nhựa nhưng chứa nhiều gỗ hơn nên nhẹ và cứng hơn Kỳ Nam và chìm trong nước
- Thiên Hương: Loại gỗ có màu trắng hơn và ít nhựa hơn hai loại trước đó.
Có mô tả thêm có những loại Trầm Hương không có nhựa, không có mùi thơm và thường được sử dụng để làm giả các lô hàng thuộc ba loại thương mại ở trên. Người ta cho rằng phải là một người sành sỏi mới có thể mua được Trầm Hương, do tình trạng làm giả tràn lan và tinh vi, được thực hiện bằng cách làm đen Trầm Hương không có nhựa bằng cách phủ một loại nhựa ngoại lai và ướp khói của Trầm Hương thật.
Lịch sử thương mại và sử dụng chất thơm có liên quan đến Trầm Hương theo vùng
AI CẬP CỔ ĐẠI
Ai Cập Cổ Đại có thể là nền văn minh đầu tiên ghi lại việc sử dụng chất thơm, thông qua những bức tranh mô tả việc sử dụng và buôn bán Trầm Hương ở Đền Deir el-Bahri ở Thượng Ai Cập (khoảng thế kỷ 17 TCN). Một số ghi chép vào khoảng năm 1600 TCN cho biết thông tin chi tiết về quy trình sản xuất một số lượng đáng kể các chế phẩm thuốc, trong đó có nhiều loại có chứa cây thơm. Hương và nước hoa đã được người Ai Cập Cổ Đại biết đến rộng rãi theo mô tả được ghi chép từ khoảng 484 – 425 TCN.
Thời kì này người ta cũng sử dụng các loại thảo mộc làm thuốc bôi bao gồm quế và mộc dược (mộc dược là các loại nhựa thơm được chiết từ các loại cây nhỏ có gai), nhưng Lô Hội dường như không được mô tả trong các thành phần làm thuốc ở thời kì này.
Về việc sử dụng Trầm Hương trong nghệ thuật ướp xác của người Ai Cập: Người ta không tìm thấy ghi chép nào nhắc tới việc sử dụng Lô Hội trong quá trình ướp xác trong số 31 loại thực vật. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà sử học đã khẳng định rằng gỗ Lô Hội đã được người Ai Cập sử dụng để ướp xác và các nghiên cứu phân tích trên các xác ướp được tìm thấy đã cho thấy rằng người Ai Cập đã sử dụng Mộc Dược và Lô Hội trong quá trình ướp xác vì đặc tính chống thối rữa mạnh mẽ chứ không chỉ vì đặc tính mùi thơm.
Thời kỳ này những loại chất thơm và gia vị nhập khẩu chưa được chú ý và xác định là những sản phẩm quan trọng.
Hoạt động mua bán, trao đổi thương mại chất thơm cũng đã diễn ra từ những năm 2500 – 2400 TCN khi người Ai Cập cổ đại di chuyển qua Biển Đỏ và bờ biển phía Đông Châu Phi để mua bán trao đổi hàng hóa sản xuất đổi lấy nô lệ, ngà voi, vàng (từ Ethiopia và Somalia), gia vị (từ Ấn Độ qua Yemen) và chất thơm (nhũ hương và mộc dược từ Yemen).
Nhang Kyphi hay Kapet: Thường được người Ai Cập cổ đại gọi là “Con mắt của Horus”, Kepu (cúng cho các vị thần nam) hay Kapet (cúng cho các vị thần nữ), được người Hy Lạp gọi là Kyphi. Đó là loại nhang được tôn kính nhất trong ba loại nhang ở đền thờ Ai Cập cổ đại (bên cạnh Trầm Hương và Mộc Dược).
Nguyên liệu được để làm nhang Kyphihay Kapet gồm: Trầm Hương đất, đất nhựa thơm, đất mastic, rễ cây xương rồng khô và xay nhuyễn, thìa sả khô, lá bạc hà khô, quả bách xù khô và nghiền, tấn quế xay.
HY LẠP CỔ ĐẠI VÀ ROME
Người dân Hy Lạp cổ đại có thể không sử dụng hương thường xuyên trong các nghi lễ của họ, nhưng tập tục này có thể đã được áp dụng vào khoảng thế kỷ thứ 6 TCN, một số ghi chép có nhắc tới việc việc sử dụng lô hội của nhà triết học Hy Lạp Pythagoras để giúp ích trong việc tiên tri.
Người Hy Lạp cũng sử dụng Lô Hội tại các lễ hội công cộng, trong các đám rước và các nghi lễ cầu nguyện. Vào khoảng 485 – 425 TCN, người Hy Lạp đã biết về nhựa thơm, lô hội, quế và các loại gia vị khác thông qua việc buôn bán với người Phoenicia (Phoenicia là một nền văn minh cổ đại nằm ở miền bắc khu vực Canaan cổ đại, với trung tâm nằm dọc vùng eo biển Liban, Syria, và Bắc Israel ngày nay).
Vào khoảng năm 120 – 110 TCN, Eudoxus là một nhà hàng hải người Hy Lạp đã thực hiện 2 chuyến đi đến Ấn Độ để mua gia vị, chất thơm và những thứ xa xỉ khác.
Trong một số ghi chép của Dioscorides (là một bác sĩ, nhà dược học, nhà thực vật học người Hy Lạp những năm 50 -70 Sau Công Nguyên) đã mô tả một số đặc tính chữa bệnh của Trầm Hương và đề cập đến việc sử dụng nó làm hương. Mặc dù Dioscorides mô tả Trầm Hương có vị đắng và se, nhưng nó được sử dụng để làm hơi thở thơm mát khi nhai hoặc làm thuốc sắc ngậm trong miệng. Ông cũng viết rằng Trầm Hương được sử dụng để điều trị các bệnh về dạ dày và các bệnh lý liên quan đến phổi, gan.
Người La Mã đã áp dụng các tập quán và phong tục văn hóa (bao gồm cả việc sử dụng thực vật) từ các vương quốc khác nằm dưới sự kiểm soát của họ (tức là Hy Lạp, Ai Cập, Phoenician). Các chất thơm được sử dụng ở La Mã cổ đại là hoa hồng, hoa huệ, cờ ngọt, hoa thủy tiên, hạt tiêu, quế, cây cam tùng, gỗ lô hội và các loại cỏ thơm nhập khẩu từ Ấn Độ.
Với việc Đế quốc La Mã sáp nhập Ai Cập vào năm 30 TCN, người La Mã đã kiểm soát nhiều tuyến đường thương mại trên bộ và trên biển nối trực tiếp Địa Trung Hải với Châu Phi, miền Nam Ả Rập (Ai Cập) và Ấn Độ.
Vào năm 65, Hoàng đế La Mã Nero đã thắp một lượng lớn hương phương Đông (bao gồm các chất thơm trong đó có lô hội) để thương tiếc cái chết của người vợ thứ hai Poppaea Sabina. Poppaea Sabina cũng được thực hiện ướp xác cùng với các loại mộc dược, lô hội trước khi chôn cất.
Một ngôi mộ La Mã thế kỷ thứ 3 CN được khai quật vào năm 1485 có chứa hài cốt một phụ nữ trẻ được chôn trong hỗn hợp mộc dược, lô hội và các loại thuốc vô giá khác.
Vào thế kỷ thứ 6 CN, các ghi chép đã liệt kê 54 mặt hàng có giá trị phải chịu thuế nhập khẩu tại Alexandria và những mặt hàng này bao gồm gỗ Lô Hội (Trầm Hương).
Vào khoảng năm 166 – 284 các thương nhân La Mã và một phái viên đã đến Trung Quốc và cống nạp cho Hoàng đế Trung Quốc bao gồm 30.000 cuộn Trầm Hương mỏng.
Vào khoảng năm 550, Cosmas Indicopleustes (một thương gia và ẩn sĩ ở Ai Cập) có ghi chép về việc nhập khẩu lụa, lô hội, gỗ đinh hương và gỗ đàn hương từ Trung Quốc và Đông Nam Á đến Ceylon vào thế kỷ thứ 6 TCN.
Ở Síp trong thế kỷ 14, Trầm Hương đã được sử dụng trong 10 công thức Y học để điều trị các bệnh về tai, mắt, da, cơ, xương, khớp, khoang miệng và đường hô hấp.
TRUNG ĐÔNG
Trầm Hương là một trong những chất thơm có giá trị rất lớn, được “tôn kính” trong thế giới Ả Rập và được nhắc đến trong nhiều tài liệu cổ về công dụng của nó trong Y học và làm nước hoa. Ví dụ, trong cuốn sách Hóa học của al-KindīAl-Kindi (al-KindīAl-Kindi 801-873 là nhà triết học Hồi Giáo đầu tiên vùng ngoại ô và được ca ngợi là “cha đẻ của triết học Ả Rập) có nhắc tới nhiều công thức điều chế nước hoa từ Trầm Hương.
Trong cuốn sách về các chất thơm đơn giản của Ibn M sawahī (một học giả, nhà thần bí, nhà thơ và nhà triết học), Trầm Hương được phân loại là loại nước hoa chính. Ibn M sawahī’ cũng thảo luận về việc chôn các bộ phận của cây Dó bầu trong lòng đất tới 1 năm như một phương pháp để làm suy giảm lớp gỗ trắng mềm bao quanh và lộ ra nhiều lớp nhựa dẻo mềm.
Trong một bộ sưu tập các tác phẩm hư cấu được viết dưới thời Abbasid Caliphate được gọi là Đêm Ả Rập, Trầm Hương xuất hiện trong một số bối cảnh, nó được sử dụng làm nước hoa, hương, trong các nghi lễ cầu nguyện, buôn bán, vật phẩm cống nạp, địa vị, và việc xây dựng trang trí làm cổng và lồng chim.
Nhiều phát hiện của vị vua ngoài đời thực Harun al-Rashid khi ông qua đời vào năm 809, kho lưu trữ của ông bao gồm 1000 giỏ lô hội và nhiều loại nước hoa.
Ở Al-Andalus (Tây Ban Nha theo đạo Hồi trong khoảng thời gian từ 900 – 1500 CN), các nhà chế tạo nước hoa địa phương đã sử dụng các chất thơm có nguồn gốc từ cả phương Đông và phương Tây với xạ hương, long não, Trầm Hương, long diên hương và nghệ tây được xếp vào nhóm 5 thành phần chính.
Có nhiều mô tả về việc sử dụng Trầm Hương để ăn, hương vị rất đặc biệt. Trầm Hương chất lượng cao được chế biến thành bột và thoa lên da, quần áo.
Vào khoảng năm 851, có nhiều ghi chép về việc người Ả Rập đã tới bờ biển Ấn Độ, họ nhìn thấy trên vịnh Bengal của Ấn Độ có nhiều vàng, hồng ngọc, lô hội, ngọc ai, ốc xà cừ được buôn bán nhiều.
Vào giữa thế kỷ thứ 8, có nhiều ghi chép về một thương gia người Ả Rập đã đến Trung Quốc. Nhiều giao dịch lớn có liên quan đến Trầm Hương và gia vị được thực hiện vào thời gian này ở eo biển Malacca (Malaysia) giữa người Trung Quốc và người Ả Rập.
Các ghi chép từ thế kỷ 13 của các thương nhân Ả Rập cũng xác định rằng việc buôn bán chất thơm được kiểm soát bởi những người Hồi giáo thành lập ở Indonesia (lúc đó được gọi là Đảo của Đông Nam Á). Người ta mô tả khu vực này có rất nhiều Trầm Hương thơm.
ẤN ĐỘ
Giống như nhiều chất thơm, việc sử dụng và buôn bán Trầm Hương đã có lịch sử lâu đời ở Ấn Độ và được mô tả trong các bản thảo văn học, thương mại, giáo dục và y tế. ở Ấn Độ, Trầm Hương cũng được coi là vật phẩm có giá trị thương mại lớn.
Khoảng năm 320 TCN, các văn bản đã cho thấy chất thơm được xem là một trong những vật phẩm quý giá được tiếp nhận trong kho bạc, cùng với gỗ lô hội và gỗ đàn hương được mô tả là những chất thơm tốt nhất.
Trong các văn bản của Kāmasūtra (là một cuốn sách từ thế kỷ thứ 2, hướng dẫn nghệ thuật sống tốt, bản chất của tình yêu, tìm kiếm đối tác, duy trì đời sống tình dục và các khía cạnh khác liên quan đến năng lực hướng đến khoái cảm) đã đề cập việc sử dụng nước hoa từ lô hội và chất bôi trơn là điều cần thiết cho trải nghiệm nhục dục.
Từ khoảng thế kỷ thứ 5 – 10, người ta cho rằng, Trầm Hương dẫn đến việc đạt được ba mục tiêu của đời sống con người, đó là Công đức tôn giáo, thịnh vượng thế gian và hưởng thụ nhục dục.
Bằng chứng về tầm quan trọng của Trầm Hương ở Ấn Độ được trình bày trong tác phẩm thơ ca của Cilappatikāram (khoảng thế kỷ thứ 5 CN), trong đó đề cập đến mùi hương của gỗ đàn hương, lô hội, xạ hương và cầy hương phát ra từ thành phố Madurai (thủ đô của vương quốc Pandya) có thể được phát hiện bởi những du khách ở xa.
Các sản phẩm được buôn bán từ Ấn Độ trong thời kỳ La Mã rất đa dạng, gồm lụa, đá quý, gia vị và chất thơm, dĩ nhiên là bao gồm cả Trầm Hương (khoảng 485–425 TCN). Trầm Hương được biết là có nguồn gốc từ các vùng cao xung quanh lưu vực sông Hằng và có thể được nhập khẩu từ Tenasserim (một phần trong các dãy núi từ Ấn độ đến Malay) và Sumatra (một đảo lớn phía tây Indonesia).
Một số tài liệu du lịch bằng tiếng Ả Rập vào thế kỷ thứ 9 có mô tả về Trầm Hương xuất hiện tự nhiên nhiều ở vùng Sri Lanka.
Những năm 1630, trong chuyến du hành qua Surat ở Ấn Độ, nhà thám hiểm người Đức – Johann Albrecht de Mandello đã ghi lại rằng, Trầm Hương tự nhiên có nguồn gốc từ Java, Malacca, Sumatra và Campuchia. Ông ghi lại rằng, Trầm Hương hoang dã được sử dụng để hỏa táng các linh mục và hoàng tử Ấn Độ, do đó Trầm Hương được khẳng định là có giá trị cao trong xã hội Ấn Độ vào thời điểm này.
Ở Ấn Độ, trong những năm 1500, Trầm Hương, xạ hương và long diên hương đã được sử dụng để tạo hương vị cho các sản phẩm từ Trầu.
Vào thế kỷ 19, việc khai thác Trầm Hương là một hoạt động phong tục ở nhiều vùng khác nhau với phần lớn sản phẩm được xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập, Ba Tư và Châu Âu.
Vào đầu thế kỷ 20, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu nổi bật hơn của Trầm Hương Ấn Độ.
Ở cả Ấn Độ và Trung Quốc, Trầm Hương đã được sử dụng để sản xuất giấy từ đầu năm 284 CN. Loại giấy này có mùi thơm và các hạt đốm như trứng cá.
TRUNG QUỐC
Sự phát triển của các tuyến thương mại nối Địa Trung Hải với Đông Á vào những năm thế kỷ đầu CN đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ dài thương mại giữa miền Bắc Ấn Độ và Trung Quốc. Hàng hóa xa xỉ, bao gồm san hô, ngọc trai, đá quý, đồ thủy tinh, nhang hương và chất thơm từ Ấn Độ, được buôn bán dọc theo các tuyến đường này để lấy lụa của Trung Quốc. Nhang hương được sử dụng lần đầu tiên ở Trung Quốc là vào khoảng thế kỷ thứ 1 CN và được coi là ảnh hưởng trực tiếp từ văn hóa Phật giáo Ấn Độ.
Lịch sử về việc sử dụng nhang hương có thể được tìm thấy trong dược điển chính thức lâu đời nhất, trong các tài liệu y học cổ truyền của Trung Quốc, trong đó có danh sách các thành phần nổi bật (Trầm Hương, đinh hương, hoắc hương).
Vào thế kỷ thứ 3 CN, chất thơm từ Đông Nam Á được coi là thứ xa xỉ để giới cầm quyền Trung Quốc sử dụng. Thống đốc Kinh Châu vào cuối thế kỷ thứ 3 được cho là đã rải bột Trầm Hương mịn trên một chiếc giường ngà. Những cô gái phục vụ mà ông yêu thích được yêu cầu dẫm lên nó và sẽ được thưởng ngọc trai cho những ai không để lại dấu chân và hình phạt (ra lệnh giảm cân) cho những ai làm xáo trộn bột.
Một trong những loài thực vật trong chất thơm được biết tới và hình thành kiến thức riêng biệt đầu tiên trong số các loại thực vật là Trầm Hương (ghi chép vào khoảng năm 300 CN). Kiến thức về sự hình thành Trầm Hương đã được mô tả ngắn gọn rằng việc cắt vào cây sẽ mang lại thay đổi, sự thay đổi về màu sắc của các mô bên trong (thân, rễ, cành), sự thay đổi này được hình thành do phát triển của nhựa cây.
Vào thế kỷ thứ 4 CN, Trầm Hương và bạch đậu khấu đã được nhập khẩu từ Việt Nam và Campuchia sang Trung Quốc. Việc nhập khẩu và cống nạp Trầm Hương từ Việt Nam (Đại Việt và Champa) được tiếp tục thực hiện cho đến thời nhà Tống (960 – 1279 CN), thời điểm mà Trầm Hương được ghi nhận là có nhiều ở cả hai nước, miền Nam Việt Nam (Champa) và miền Đông Indonesia.
Các ghi chép chi tiết về các sản phẩm ngoại lai được nhập khẩu vào Trung Quốc trong suốt 3 thế kỷ của triều đại nhà Đường (618 – 907 SCN). Chúng bao gồm nhiều sản phẩm thực vật, động vật và khoáng sản. Trong thời kỳ này, chất thơm có nguồn gốc từ bản địa cũng được sử dụng, nhưng các loại được nhập khẩu lại được ưa chuộng hơn.
Hoàng đế Huyền Tông (847 CN) đã ban hành một sắc lệnh, trong đó bao gồm mọi người phải rửa tay và thắp hương trong các buổi lễ và nghi thức quan trọng.
Một số ghi chép nhắc tới một vị hoàng tử Trung Quốc vào thế kỷ thứ 8 chỉ nói chuyện với khách sau khi anh ta ngậm gỗ lô hội và xạ hương trong miệng.
Một phòng trưng bày được xây dựng bằng Trầm Hương bởi một trong những quan đại thần của Huyền Tông, có lan can và tường bằng gỗ đàn hương tỏa hương thơm của xạ hương và Trầm Hương được sử dụng như một vật phẩm giá trị nhằm tôn lên sự phô trương xa hoa về sự giàu có và quyền lực.
Chất thơm cũng được nhắc tới là Dấu hương, một dạng hương phức tạp được phát triển vào thế kỷ thứ 8, được đốt trong các nghi lễ Phật giáo Mật tông, được cho là được chế tác chủ yếu bằng Trầm Hương. Dấu hương cũng được dùng để đo thời gian ở cả Trung Quốc và Nhật Bản, nơi các nén hương hoặc que hương được đánh dấu bằng các vạch chia thời gian. Việc đốt tấm bảng hoặc que sẽ cho thấy thời gian đã trôi qua.
Trong dược điển chính thức của nhà Đường, Trầm Hương, đinh hương, hoắc hương và hổ phách lỏng là 6 loại tinh chất được sử dụng nhiều nhất bởi các nhà pha chế chất thơm. Trầm Hương cũng được cho là được sử dụng để làm nước hoa cho các tòa nhà và làm thơm quần áo của các kỹ nữ.
Trầm Hương có một vị trí nổi bật trong Y học thời Đường và được dùng làm thuốc mỡ bôi ngoài da cũng như thuốc sắc trong rượu để điều trị nhiều bệnh nội khoa khác nhau, xua đuổi tà ma và thanh lọc tâm hồn.
Thương mại quốc tế sôi động diễn ra trong 4 thế kỷ cuối của thiên niên kỷ thứ 1 CN, là kết quả của sự nổi lên của một Trung Quốc thống nhất dưới thời nhà Tùy (581 – 618) và sự bành trướng hòa bình của nước này dưới thời nhà Đường (618 – 907) và sự trỗi dậy của các triều đại Hồi giáo (661 – 750). Điều này đã mở ra thương mại đường biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và các trung tâm Ả Rập ở Trung Đông.
Người Ba Tư và Ả Rập đi thuyền đến Quảng Châu, nơi họ buôn bán nhiều loại hàng hóa thơm để lấy đồ sứ, lụa, tiền đồng và hàng hóa nhà Đường.
Vào năm 916, các ghi chép mô tả rằng, trung tâm buôn bán Trầm Hương, gỗ đàn hương và long não là Kaläh (được cho là nằm ở bờ biển phía tây của bán đảo Mã Lai).
Vào cuối thế kỷ 11 CN, một lượng lớn Trầm Hương và gỗ đàn hương đã được các thương nhân Đông Nam Á buôn bán vào Trung Quốc, trong đó có 2950 kg Trầm Hương được gửi từ Giao Chỉ (miền bắc Việt Nam) vào năm 1063.
Từ giữa đến cuối thế kỷ 12 CN, các thương nhân Trung Quốc đẩy mạnh việc thu mua Trầm Hương từ Đông Nam Á và khai thác các nguồn tự nhiên ở miền Nam Thái Lan để đổi lấy gốm sứ chất lượng cao. Nguồn nguyên liệu dồi dào cũng được tìm thấy ở Bán đảo Mã Lai.
Vào cuối thế kỷ 12, thành phố cảng Tuyền Châu được xem là vùng đất của sự giàu có do thu thuế nhập khẩu. Các hàng hóa được đánh thuế bao gồm 40% đối với các mặt hàng như Trầm Hương. Trong các xác thuyền ở Tuyền Châu vào thế kỷ 13 (khai quật vào năm 1973), người ta tìm thấy Trầm Hương và Long diên hương trong số 13 hầm hàng.
Các chế phẩm Y tế có chứa Trầm hương được nhắc tới trong các ấn phẩm Y học cổ truyền Trung Quốc vào năm 1573. Trầm hương được chế biến sẵn dưới dạng thuốc viên, thuốc sắc và thạch cao kết hợp với vô số thành phần khác, có nhiều tác dụng tích cực đối với sức khỏe bao gồm thuốc kích thích, thuốc tống hơi, thuốc kích thích tình dục, chống thấp khớp, chống sốt rét, giảm đau, thông mũi, đặc tính bổ và lợi tiểu.
NHẬT BẢN
Việc sử dụng chất thơm ở Nhật Bản bắt đầu từ thế kỷ thứ 6 cùng với sự xuất hiện của Phật giáo. Ghi chép đầu tiên về việc sử dụng gỗ thơm được tìm thấy trong Biên niên sử Nhật Bản khi Hoàng đế Kimmei (549–571 CN) ủy thác việc chạm khắc hai vị Phật vào năm 553 từ gỗ long não được một người tìm thấy trôi nổi trên biển.
Ghi chép đầu tiên của người Nhật về Trầm Hương cũng được báo cáo trong Biên niên sử Nhật Bản. Vào năm 595, một mảnh Trầm Hương lớn trôi dạt vào bờ biển trên đảo Awaji. Người dân trên đảo ngạc nhiên nhận thấy rằng nó tạo ra mùi thơm nồng khi dùng làm củi, và sau đó tặng một mảnh chưa cháy cho Hoàng hậu Suiko.
Hỗn hợp hương thơm ban đầu được đốt trong các nghi lễ Phật giáo Nhật Bản bao gồm Trầm Hương, gỗ đàn hương, đinh hương, quế và long não. Khi Hoàng đế Tenji (671 CN) lâm bệnh, vào năm cuối đời, ông đã gửi đồ cúng tới Đức Phật của Hōkō-ji (Kyoto) bằng nhiều vật phẩm có giá trị bao gồm Trầm Hương và gỗ đàn hương.
Một câu chuyện lặp đi lặp lại về việc sử dụng hương ở Nhật Bản đề cập đến một miếng Trầm Hương lớn tên là Ranjatai, là một món quà từ Triều đình Trung Quốc cho Hoàng đế Shômu (724–748 CN). Người ta đã sử dụng từng phần trong khối Trầm Hương trong những dịp đặc biệt và sau đó được trưng bày định kỳ.
Trong thời kỳ Nara (710 – 794 CN), việc đốt hương đã trở thành một hoạt động thế tục. Hỗn hợp hương có chứa Trầm Hương được nhập khẩu từ nhà Đường, Trung Quốc (618–907 CN) được đánh giá cao ở Nhật Bản.
Nghi lễ thắp hương (KODO) bắt đầu xuất hiện trong thời Heian (794 đến 1185 CN) và là một trong những tập tục tiêu biểu của giới quý tộc, nơi hương liệu là trung tâm của buổi lễ. Trong buổi lễ, những người tham gia đã phân biệt và đánh giá chất lượng của các loại hương thơm khác nhau, bao gồm các sản phẩm địa phương như thông, tuyết tùng và các loại hương liệu ngoại nhập như Trầm Hương, gỗ đàn hương, quế và đinh hương.
Trong giai đoạn 833 – 850 CN, giới quý tộc Nhật Bản ngừng nhập khẩu hương từ Trung Quốc và bắt đầu tự sản xuất, pha trộn hương của riêng họ. Hoàng tử Kaya đã xây dựng nên 6 mùi hương nổi tiếng (được mô tả từ thế kỷ 12 CN), tất cả 6 mùi hương đều được kết hợp từ 6 nguyên tố giống nhau theo các tỷ lệ khác nhau: Trầm Hương, đinh hương, vỏ sò, hổ phách, gỗ đàn hương và xạ hương. Riêng Trầm Hương, nếu được sử dụng riêng biệt sẽ là mùi hương thứ bảy, còn được gọi là Hương Đen.
CHÂU ÂU
Các quốc gia châu Âu bắt đầu ảnh hưởng đến thương mại gia vị quốc tế ngay từ đầu vào thế kỷ 14. Người Ấn Độ và Châu Á đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc về nguồn gốc, quy trình thu hoạch, loại sản phẩm, đặc tính tạo mùi thơm và ứng dụng y tế của Trầm Hương. Trầm Hương được người Châu Âu ban đầu mô tả là không nhất thiết phải đốt mà có thể xoa tay để tỏa hương thơm.
Từ thế kỷ 16 – 18, các thương nhân Bồ Đào Nha và Pháp cũng ghi chép về chất lượng của loại Trầm Hương có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam được buôn bán ở Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông.
Vào giữa những năm 1600 CN, người Bồ Đào Nha đã gửi một mẩu Trầm Hương để tưởng nhớ Hoàng đế của Nhật Bản. Điều này chứng tỏ người châu Âu đã có nhận thức được sự quý giá của tầng lớp quý tộc châu Á dành cho Trầm Hương.
Trong các ghi chép cổ của của thương gia Châu Âu cho thấy Trầm Hương có giá trị ở mọi nơi, ngoại trừ những nơi mà nó đã có nguồn gốc. Người Châu Âu dường như rất ít quan tâm tới các loại chất thơm thực vật được nhập khẩu, các ghi chép thương mại chỉ nhắc nhiều đến các loại gia vị, các loại chất thơm như Trầm Hương, long não, đàn hương rất ít được nhắc tới.
Trầm Hương trong văn bản tôn giáo
VĂN BẢN HINDU
Câu chuyện sử thi tiếng Phạn Mahabharata (mô tả giai đoạn 1493 – 1443 TCN của lịch sử Ấn Độ) có viết về việc sử dụng hương thơm trong không khí niềm vui, sự sang trọng và hạnh phúc của con người. Trầm Hương thường được nhắc đến trong văn bản nhằm thể hiện sự giàu có, một lời tri ân và một lời chào hỏi. Trong cuốn sách đầu tiên của Mahabharata, người dân thành phố cổ Khandavaprastha đã tiếp đón những vị khách phương xa bằng cách khiến mọi nơi trong thị trấn tràn ngập hương thơm ngọt ngào của lô hội cháy.
Cũng trong văn bản, việc sử dụng Trầm Hương để thể hiện địa vị và sự giàu có đã được mô tả chi tiết về một giảng đường ở ngoại ô thủ đô của Vua Drupada (Kamapilya), được bao quanh bốn phía bằng những bức tường cao và một con hào có mùi thơm lô hội đen và rắc nước trộn với bột đàn hương, trang trí bằng những vòng hoa.
Những dinh thự bao quanh nhà hát vòng tròn này cũng tỏa hương thơm từ lô hội hảo hạng và các vị vua sinh sống trong các dinh thự này bị ám ảnh bởi mong muốn vượt trội lẫn nhau, các mô tả cũng nhắc tới việc được trang điểm bằng mùi thơm của lô hội đen.
Một số mô tả chi tiết trong cuốn sách cũng có kể về dinh thự của các vị vua, được treo những vòng hoa và thoa dầu lô hội hảo hạng. Sau khi người Bharatas chinh phục các bộ lạc Mlechchha, những kẻ bại trận phải cống nạp rất nhiều vật phẩm có giá trị, bao gồm cả chất thơm của gỗ đàn hương và lô hội.
Công dụng của Trầm Hương và nhiều chất thơm khác trong văn bản này cho thấy sự gắn bó và tôn kính lâu dài đối với các sản phẩm có mùi thơm.
KINH THÁNH CƠ ĐỐC
Trầm Hương được nhắc đến nhiều lần trong Cựu Ước của Kinh Thánh Cơ Đốc. Ba-La-Am (ông là một nhà tiên tri ngoại giáo hay còn được xem là thầy bói, thuật sĩ) mô tả tầm nhìn của Chúa về Israel và ví các khu định cư của họ là nơi những cây lô hội được Chúa trồng. Cũng trong Cựu Ước, tầm quan trọng cao quý và quyến rũ của Trầm Hương được trình bày trong Thi Thiên, kể lại việc vua chuẩn bị kết hôn, khách mời và người tham dự đều phải thơm mùi mộc dược, lô hội và quế.
Sức mạnh quyến rũ về hương liệu bao gồm cả Trầm Hương được mô tả thêm trong Nhã Ca, về sự hấp dẫn tình dục giữa hai người yêu nhau, nơi người này ca ngợi người kia.
Châm ngôn 7:17 có lời mời của một người đàn bà quyến rũ đã làm thơm chiếc giường bằng mộc dược, lô hội và quế. Trong Tân Ước, ý nghĩa tâm linh của Trầm Hương được nêu rõ nơi thi thể của Chúa Giêsu được thoa bằng hỗn hợp mộc dược và lô hội sau khi bị đóng đinh.
VĂN BẢN PHẬT GIÁO
Trong một số văn bản Phật giáo cổ xưa ở Ấn Độ có đề cập đến việc sử dụng chất thơm trong các nghi lễ tôn giáo.
Ví dụ, trong truyện Jātaka (là những tác phẩm văn học sâu rộng về những câu chuyện Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ 4 TCN), Trầm Hương được nhắc đến trong Tập VI số 1.542, kể rằng có một vị vua vì để bước vào thế giới của các vị thần, Ông đã dâng kính toàn bộ những tài sản quý giá nhất, bao gồm cả gia đình ông. Khi lễ vật đã được chuẩn bị, các con trai được đưa đến hố hiến tế, phụ nữ trong thị trấn phải được trang điểm bằng lô hội, gỗ đàn hương, đá quý và áo choàng lụa để bày tỏ lòng kính trọng.
Trong Kinh Niết Bàn, việc sử dụng chất thơm được đề cập trong chương giới thiệu mô tả một loạt các sự kiện và giáo lý xảy ra khi Đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Trong một mô tả có đề cập đến việc sử dụng gỗ thơm trong việc hỏa táng thi hài Như Lai (Phật), mỗi người cầm trong tay hàng vạn bó gỗ thơm như gỗ đàn hương, lô hội, gỗ đàn hương. Lô hội cũng được sử dụng làm nguyên liệu để chuẩn bị bữa ăn cho Đức Phật và các nhà sư.
VĂN BẢN HỒI GIÁO
Trong Qur’an, có tài liệu tham khảo về chất thơm nhưng không có tài liệu nào đặc biệt về Trầm Hương, mô tả sự phong phú của những món quà mà Allah đã ban tặng cho con người bao gồm cả cuộc sống, lời nói, trái cây, chà là, ngũ cốc, thức ăn gia súc và cây thơm.
Việc đưa các loại cây có mùi thơm vào danh sách quà tặng rất cơ bản cho cuộc sống này. Trong Sūrah có nói rằng những người kiềm chế những cám dỗ lừa đảo sẽ được khen thưởng trên Thiên đường và được tiếp cận với nhiều loại tài nguyên bao gồm cả xạ hương thơm.
Trong một số Hadith (báo cáo về lời nói, hành động hoặc sự tán thành ngầm của nhà tiên tri Muḥammad), Trầm Hương được coi là một loại hương Ấn Độ. Sứ giả của Allah đã được trích dẫn mô tả Thiên đường, nơi trong số rất nhiều điều kỳ diệu, Trầm Hương sẽ được sử dụng trong lư hương của họ. Việc sử dụng Trầm Hương như một phương pháp điều trị y tế đã được nhà tiên tri Mu-hammad khuyến khích và được cho là có 7 loại phương thuốc, bao gồm một loại chữa sưng lưỡi gà và một loại chữa bệnh viêm màng phổi. Trầm Hương cũng được cho là có tác dụng làm giảm các bệnh thông thường, nhà tiên tri đã nói về một Muhrim bị đau đầu hoặc mắt: “Hãy để anh ta bôi lô hội lên họ”. Trầm Hương đã được sử dụng trong thực hành khử trùng/ thanh lọc quan trọng, trong đó xông khói bằng gỗ lô hội hoặc trộn với long não.
Nhà tiên tri Muhammad khuyên đàn ông và phụ nữ trong việc sử dụng nước hoa: đàn ông nên tắm và xức nước hoa cho bài giảng thứ Sáu tại nhà thờ Hồi giáo; phụ nữ có thể dùng nước hoa ở nhà nhưng không được dùng ở nhà thờ Hồi giáo; và đàn ông và phụ nữ có thể tự làm thơm mình khi quan hệ tình dục. Được biết, nhà tiên tri Mu-hammad ưa thích mùi hương của lô hội hoặc sự kết hợp của lô hội với long não. Việc đốt hương trong một nhà thờ Hồi giáo đã được Umar – vị vua thứ hai thực hiện, khiến việc này trở nên phổ biến. Không có tài liệu nào về thứ bị đốt, nhưng người ta tin rằng đó là lô hội hoặc kết hợp với long não.
KẾT LUẬN VÀ NHẬN ĐỊNH
Định hình lĩnh vực Trầm Hương: Thông qua các sự ghi chép của các nhà sử học, văn học, nhật ký thương nhân, các văn bản tôn giáo trên thế giới chúng ta có thể định hình được quá trình con người biết tới Trầm Hương.
Xuất phát điểm từ nhu cầu chất thơm để phục vụ các nghi thức tâm linh, con người tìm tới các loại thực vật có mùi thơm tự nhiên. Nhu cầu lựa chọn và sự minh bạch trong thương mại khiến các loại thực trong chất thơm được chú ý riêng biệt từ đó con người bắt đầu biết tới Trầm Hương như 1 dạng nguyên liệu có mùi thơm đặc biệt trong các loại thực vật. Trầm Hương cũng đáp ứng được các nhu cầu trong đời sống con người như thưởng thức mùi hương, ăn, chữa bệnh, thể hiện sự cao quý và quan niệm tâm linh khiến giá trị của loại thực vật này ngày càng được quan tâm. Nhu cầu tăng cao cộng thêm mức độ khai thác lớn nên cạn kiệt và khan hiếm. Theo dòng chảy lịch sử giá trị của loại gỗ này ngày còn liên quan sâu sắc đến ý nghĩa xã hội, chính trị, tôn giáo, kinh tế khiến chúng trở thành một lĩnh vực riêng.
Ý nghĩa trong Tôn giáo : Trong các văn bản cổ xưa của các tôn giáo lâu đời trên thế giới, Trầm Hương luôn được nhắc nhiều đến các sự kiện tâm linh vì người ta cho rằng làn khói thơm của Trầm Hương có thể giúp họ kết nối tâm linh với các đấng tối cao trong tôn giáo của họ. Việc trang trí, làm lễ vật thờ cúng bằng Trầm Hương cũng được sử dụng để tỏ lòng tôn kính.
Tinh thần và vật chất : Trầm Hương luôn được coi trọng bởi những người có quyền lực và được xem như một sự cao quý, thể hiện địa vị. Sử dụng Trầm Hương như một món quà cũng thể hiện sự trân quý và thường được lựa chọn làm vật quý trong các cống phẩm.
Công dụng : Khởi nguồn nhu cầu chất thơm từ thực vật phục vụ nhu cầu mùi hương, Trầm Hương được con người biết đến và sử dụng trong các mục đích làm chất chống thối rữa trong ướp xác, nước hoa tăng sự quyến rũ, kích thích và trải nghiệm tình dục, điều chế dược liệu chữa bệnh.
Văn hóa : Việc sử dụng trong đời sống tinh thần và thể chất, cùng với sự ảnh hưởng của các Tôn Giáo, Trầm Hương dần trở thành một nét văn hóa mang ý nghĩa truyền thống của quốc gia như Trung Đông, Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản. Hoạt động mua bán Trầm Hương cũng giúp tăng trưởng kinh tế đồng thời kết nối quan hệ giữa các nước.
Ý kiến góc nhìn cá nhân :
Trầm Hương thường được dùng để thể hiện sự cao quý, tính độc quyền của giới thượng lưu, có thể do khan hiếm và giá cả đắt đỏ khiến chúng khó tiếp cận, trở nên xa xỉ. Công dụng của Trầm Hương đêm đến trải nghiệm thú vị mang tính thưởng thức trừu tượng, sự ảnh hưởng của Tôn Giáo cũng khiến nó trở nên huyền bí, những gì được cho là có liên quan đến tâm linh điều được con người coi trọng và đặt niềm tin vào. Tất cả những điều này tạo nên giá trị cho Trầm Hương đối với con người.
Một số sự kiện được nhắc tới theo góc nhìn cá nhân có thể là một loại gỗ khác hoặc Long Diên Hương, Vd trong câu chuyện người ta tìm thấy những khúc gỗ trôi dạt trên biển của Nhật Bản và được truyền tai nhau cho tới tận ngày nay đó chính là Trầm Hương (hoặc Kỳ Nam) được trôi từ Việt Nam và xem đây là cột mốc khởi đầu cho sự biết tới ở Nhật Bản. Dựa vào suy đoán cá nhân thì Trầm Hương không thể bảo tồn được nguyên vẹn cả chất lẫn mùi hương và không thể không bị mục nát khi bị ngâm trong nước biển lâu ngày trước khi trôi dạt vào đất liền. Rất có thể đó chính là Long Diên Hương, một dạng chất có mùi thơm từ phân của cá nhà táng hay được tìm thấy trên bờ biển.
Về các mô tả được ghi chép, góc nhìn cá nhân cảm thấy có thể đang không nói về Trầm Hương, nhất là các mô tả về mùi thơm rất dễ bị nhầm lẫn với các loại chất thơm khác. Bằng chứng thông qua các ghi chép chúng ta có thể hình dung trong các Công dụng, Trầm Hương chỉ là 1 nguyên liệu dùng để pha trộn với nhiều nguyên liệu khác để tạo ra mùi hương, mùi vị được mô tả không còn tính chất nguyên bản của Trầm Hương. Có nhiều ghi chép về các sản phẩm làm giả cũng là nguyên nhân khiến các mô tả không được chính xác.
Về đánh giá phân loại chất lượng các vùng thì có thể đúng với thời điểm đó khi chưa có sự thay đổi về mặt chính trị các quốc gia với hiện nay. Địa lí bản đồ khu vực thời xa xưa người ta cũng không thể xác định chính xác như bây giờ. Yếu tố minh bạch trong giao thương cũng ảnh hưởng nhiều đến thông tin nguồn gốc (các sản phẩm nhập khẩu đa số được duy chuyển đường dài, nhiều ngày qua nhiều nước). Sự thay đổi trong tư duy xã hội, văn hóa và mục đích ứng dụng cũng ảnh hưởng đến tiêu chuẩn phân loại chất lượng. Nhưng thông qua các mô tả về phân loại chất lượng chúng ta có thể thấy được một số mô tả có các đặc tính vẫn đang được áp dụng cho tới ngày nay, ví dụ như Trầm Hương chìm là tốt nhất, Trầm Hương khai thác trên cây sống là Trầm Hương sinh mùi mạnh hơn so với Trầm Hương mục nát là rục. Kỳ nam có chất mềm dẻo vv..vv
Đây là tất cả sự tóm tắt về quá trình định hình nên lĩnh vực Trầm Hương thời cổ đại đến cận đại của các quốc gia trên thế giới. Trong các phần sâu sẽ cùng mọi người đi vào tìm hiểu thêm về lịch sử ở Việt Nam, giải mã thêm nhiều điều sâu hơn về Trầm Hương – Kỳ Nam và nhiều câu chuyện khác liên quan đến Trầm Hương thời hiện đại.
————————————————————————————————————————————————————————————————–
CÁC NGUỒN ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ TÌM TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐƯỢC TRÍCH DẪN TRONG NỘI DUNG NÀY .
Kho lưu trữ/cơ sở dữ liệu | |
ABIM: Thư mục y học Ấn Độ | http://indianmedicine.eldoc.ub.rug.nl |
Sách và tạp chí trực tuyến Brill | http://booksandjournals.brillonline.com |
Thư viện Ethereal kinh điển Kitô giáo | http://www.ccel.org |
Dự án Con đường tơ lụa kỹ thuật số | http://dsr.nii.ac.jp |
Trung tâm tài nguyên văn học Gale | http://www.gale.com |
sách Google | https://books.google.com |
Thư viện số Hathi Trust | https://babel.hathitrust.org |
Kho lưu trữ tài liệu Heidelberg | http://archiv.ub.uni-heidelberg.de |
Lưu trữ Internet | https://archive.org |
Lưu trữ văn bản thiêng liêng trên Internet | www.sacred-texts.com |
Jstor | https://www.jstor.org |
Hệ thống thông tin hợp tác và nghiên cứu học thuật quốc gia | https://www.narcis.nl |
Viện khoa học truyền thông và tài nguyên thông tin quốc gia | http://www.niscair.res.in |
Thư viện Quốc gia: Bộ Văn hóa, Chính phủ Ấn Độ | http://www.nationallibrary.gov.in |
OCLC WorldCat | http://www.worldcat.org |
Cổng nghiên cứu | https://www.researchgate.net |
Lưu trữ Nam Á | http://www.southasiaarchive.com |
Sunnah.com Haddith của nhà tiên tri Mohammed trong tầm tay bạn | https://sunnah.com |
Qur’an cao quý | http://quran.com |
Thư viện Luật La Mã | http://droitromain.upmf-grenoble.fr |
Thư viện trí tuệ | https://www.wisdomlib.org |
Cơ sở dữ liệu thư mục | |
Cơ sở dữ liệu CabDirect | https://www.cabdirect.org |
Cơ sở dữ liệu EBSCOhost và kho lưu trữ kỹ thuật số | https://www.ebscohost.com . |
Học giả Google | https://scholar.google.com.au |
Khoa học trực tiếp | http://www.sciencedirect.com |
Scopus | https://www.scopus.com |
Web Khoa học (ISI) | https://www.webofknows.com |
Văn học được trích dẫn
-
Ali, D. 2011. Suy nghĩ lại về lịch sử của thế giới kāma ở Ấn Độ thời kỳ đầu. Tạp chí Triết học Ấn Độ 39(1): 1–13.
-
Allami, AF 1873. Ain-i-Akbari. H. Blochmann dịch từ nguyên bản tiếng Ba Tư, tập. 1. Calcutta: Hiệp hội Châu Á của Bengal.
-
———. 1891. Ain-i-Akbari (1590). HS Jarrett dịch từ nguyên bản tiếng Ba Tư, tập. 2. Calcutta: Hiệp hội Châu Á của Bengal.
-
Antonopoulou, M., J. Compton, LS Perry và R. Al-Mubarak. 2010. Việc buôn bán và sử dụng trầm hương (oudh) ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Petaling Jaya, Selangor, Malaysia, GIAO THÔNG Đông Nam Á. http://www.traffic.org/species-reports/traffic_species_plants16.pdf
-
Aston, WG 1896. Nihongi: Biên niên sử Nhật Bản từ thời xa xưa nhất đến năm 697 sau Công nguyên, được WG Aston dịch từ nguyên bản tiếng Trung và tiếng Nhật. Luân Đôn: Kegan Paul, Trench, Trubner & Co.
-
Atikal, I. 1994. Câu chuyện về một chiếc vòng chân: Một sử thi về Nam Ấn Độ, do R. Pathasarathy dịch. New York: Nhà xuất bản Đại học Columbia.
-
Balfour, JH 1866. Những cây trong Kinh thánh. Luân Đôn: T. Nelson & Các con trai.
-
Banerjee, G. 1921. Hy Lạp và Rome. Trong: Ấn Độ được thế giới cổ đại biết đến. 15–29, Luân Đôn: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
Bansal, SP 2006. Theo bước chân của Đức Phật. New Delhi: Sách Smiriti.
-
Barden, A., NA Anak, T. Mulliken và M. Song. 2000. Trọng tâm của vấn đề: Sử dụng và buôn bán trầm hương và thực hiện CITES đối với Aquilaria malaccensis . Cambridge, Vương quốc Anh, GIAO THÔNG. https://www.traffic.org/forestry-reports/traffic_pub_forestry7.pdf
-
Baumann, BB 1960. Các khía cạnh thực vật của việc ướp xác và chôn cất của người Ai Cập cổ đại. Thực vật học kinh tế 14(1): 84–104.
-
Bazin, N. 2013. Hương thơm nghi lễ cúng dường trong nghệ thuật của Phật giáo Tây Tạng. Tạp chí của Hiệp hội Hoàng gia Châu Á 23(1): 31–38.
-
Bedini, SA 1963. Mùi hương của thời gian. Nghiên cứu việc sử dụng lửa và hương để đo thời gian ở các nước phương Đông. Giao dịch của Hiệp hội Triết học Hoa Kỳ 53(5): 1–51.
-
———. 1994. Dấu vết thời gian: Đo thời gian bằng hương trầm ở Đông Á (Shih-chien ti tsu-chi). Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Bloomfield, M. 1897. Thánh ca Atharva Veda, do M. Bloomfield dịch. Oxford, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Clarendon.
-
Borris, RP, G. Blaskó và GA Cordell. 1988. Nghiên cứu dân tộc học và hóa học thực vật của Thymelaeaceae. Tạp chí Dân tộc học 24(1): 41–91.
-
Bose, SR 1938. Bản chất của sự hình thành “agaru”. Khoa học và Văn hóa 4(2): 89–91.
-
Brechbill, GO 2012. Hương gỗ của nước hoa. New Jersey, Mỹ: Fragrance Book Inc.
-
Brinkley, CF 1902. Nhật Bản: Lịch sử nghệ thuật và văn học, tập. 3. Luân Đôn: Công ty JB Millet.
-
Browning, WRF 2010. Lô hội. Trong: Từ điển Kinh thánh lần thứ 2, Oxford, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
Bruce, J. 1810. Biên niên sử của Công ty Đông Ấn danh giá từ khi thành lập theo hiến chương của Nữ hoàng Elizabeth, 1600, cho đến liên minh Công ty Đông Ấn Anh và Luân Đôn, 1707–8, tập 1 đến 3. London: Black , Parry & Kingsbury.
-
Burn-Callander, R. 2015. Roja Dove, ‘cái mũi’: Về việc tạo ra một giáo phái âm thanh phương Tây. The Telegraph (London) ngày 15 tháng 5 năm 2015.
-
Chakrabarty, K., A. Kumar và V. Menon. 1994. Kinh doanh trầm hương. New Delhi: GIAO THÔNG Ấn Độ. http://www.traffic.org/forestry-reports/traffic_pub_forestry20.pdf .
-
Chaudhuri, KN 1978. Thế giới thương mại châu Á và Công ty Đông Ấn Anh 1660–1760. Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
———. 1985. Thương mại và văn minh ở Ấn Độ Dương: Lịch sử kinh tế từ sự trỗi dậy của Hồi giáo đến năm 1750. Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Chin-keong, N. 2017. Ranh giới và xa hơn: Vùng biển phía đông nam Trung Quốc vào cuối thời kỳ đế quốc. Singapore: Nhà xuất bản NUS.
-
CITES. 2017. Phụ lục I, II và III có hiệu lực từ ngày 4 tháng 10 năm 2017. https://cites.org/sites/default/files/eng/app/2017/E-Appendices-2017-10-04.pdf . Truy cập: 25/10/2017.
-
Classen, C., D. Howes và SA 1994. Hương thơm: Lịch sử văn hóa của mùi. Luân Đôn: Routledge.
-
Cobb, MA 2013. Việc tiếp nhận và tiêu thụ hàng hóa phương Đông trong xã hội La Mã. Hy Lạp và La Mã 60(1): 136–152.
-
Compton, J. và A. Ishihara. 2006. Việc sử dụng và buôn bán trầm hương ở Nhật Bản. Đông Nam Á và Đông Á-Nhật Bản, GIAO THÔNG. http://144.76.93.178/sites/default/files/common/com/pc/15/X-PC15-06-Inf.pdf
-
Constable, OR 1994. Thương mại và thương nhân ở Tây Ban Nha theo đạo Hồi. Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Cordier, H. 1887. Journal d’un Voyage à la Cochinchine depuis le 29 Aoust 1749, jour de notre arrivée, jusqu’au 11 Février 1750. Revue de l’Extrême-Orient, tập 3: 81–12.
-
Counts, DB 1996. Regum externorum consuetudine: Bản chất và chức năng của việc ướp xác ở Rome. Cổ điển cổ điển 15(2): 189–202.
-
Cowell, EB 1907. Jātaka hay những câu chuyện về những kiếp trước của Đức Phật. Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Cowell, EB và FW Thomas. 1887. Harshacharita của Banabhatta do EB Cowell và FW Thomas dịch. Luân Đôn: Hiệp hội Hoàng gia Châu Á.
-
Crosswhite, FS và CD Crosswhite. 1984. Nha đam, biểu tượng thực vật và sân đập lúa. Thực vật sa mạc 6(1): 43–50.
-
CSIR (Ấn Độ). 1953. Sự giàu có của Ấn Độ: Từ điển nguyên liệu thô và sản phẩm công nghiệp của Ấn Độ, phần 3. Delhi, Ấn Độ: Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp.
-
Dannaway, FR 2010. Những đám cháy kỳ lạ, khói kỳ lạ và chất dễ cháy kích thích thần kinh: Entheogens và hương trầm trong các truyền thống cổ xưa. Tạp chí Thuốc hướng thần 42(4): 485–497.
-
de Orta, G. 1891. Coloquios dos simples e drogas da India. Lisboa: Imprensa Nacional.
-
Donovan, D. và R. Puri. 2004. Học từ kiến thức truyền thống về lâm sản ngoài gỗ: Penan Benalui và hệ sinh thái tự nhiên của Dó bầu ở Borneo của Indonesia. Sinh thái và Xã hội 9(3): 3.
-
Driscoll, JF 1953. Hương. Trong: Bách khoa toàn thư Schaff-Herzog mới về kiến thức tôn giáo, tập v, eds. SM Jackson, CC Sherman và GW Gilmore, 468–471, Grand Rapids, MI: Baker Book House.
-
Ergin, N. 2014. Hương thơm thần thánh: Lư hương Ottoman và bối cảnh của chúng. Bản tin nghệ thuật xcvi(1):70–97.
-
Feener, RM và MF Laffan. 2005. Mùi hương của người Sufi trên khắp Ấn Độ Dương: văn học Yemen và lịch sử sớm nhất của Hồi giáo Đông Nam Á. Quần đảo 70(1): 185–208.
-
Fitzgerald, CP 1961. Trung Quốc: Lịch sử văn hóa ngắn, London lần thứ 3, Vương quốc Anh: The Cresset Press.
-
Flecker, M. 2001. Một vụ đắm tàu của người Ả Rập hoặc Ấn Độ vào thế kỷ thứ 9 sau Công Nguyên ở Indonesia: Bằng chứng đầu tiên về thương mại trực tiếp với Trung Quốc. Khảo cổ học thế giới 32(3): 335–354.
-
Foltz, R. 2010. Tôn giáo của Con đường Tơ lụa: Các mô hình toàn cầu hóa thời tiền hiện đại, New York lần thứ 2: Palgrave Macmillan.
-
Freedman, P. 2008. Ra khỏi phương Đông: Gia vị và trí tưởng tượng thời Trung cổ. New Haven, CT: Nhà xuất bản Đại học Yale.
-
Gannal, J.-N. 1840. Lịch sử ướp xác và chuẩn bị về giải phẫu, bệnh lý và lịch sử tự nhiên; bao gồm cả bản tường thuật về quy trình ướp xác mới. Dịch từ tiếng Pháp, có ghi chú và bổ sung R. Harlan. Philadelphia, PA: J. Dobson.
-
Garcia, B. 2015. Bukhoor: Không chỉ là nước hoa, mà còn là hương thơm ngọt ngào của văn hóa, lòng hiếu khách và sự chữa lành. Thời báo Kuwait, ngày 17 tháng 7 năm 2015. Safat.
-
Gatten, A. 1977. Một làn khói: Mùi hương và nhân vật trong truyện Genji. Monumenta Nipponica 32(1): 35–48.
-
Giovannucci, D. và T. Reardon. 2000. Tìm hiểu về điểm số và tiêu chuẩn cũng như cách áp dụng chúng. St. Louis, MO: Ngân hàng Dự trữ Liên bang St Louis.
-
Greppin, JAC 1988. Các loại nha đam khác nhau trong thời cổ đại. Tạp chí Nghiên cứu Ấn-Âu 16(1–2): 33–48.
-
Griffith, RTH 1897. Các bài thánh ca của Rig Veda . Bản dịch tiếng Anh của RTH Griffith. tập. 2. Benares: EJ Lazarus.
-
Grindlay, D. và T. Reynolds. 1986. Hiện tượng lô hội : Đánh giá về tính chất và công dụng hiện đại của gel nhu mô lá. Tạp chí Dân tộc học 16(1–2): 117–151.
-
Groom, N. 1981. Trầm hương và mộc dược: Một nghiên cứu về buôn bán hương Ả Rập. Luân Đôn: Longman.
-
Gungwu, W. 1958. Thương mại Nam Hải: Nghiên cứu về lịch sử ban đầu của thương mại Trung Quốc ở Biển Đông. Tạp chí của Chi nhánh Mã Lai của Hiệp hội Hoàng gia Châu Á 31(182): 1–135.
-
Gunn, B., P. Steven, S. Margaret, L. Sunari và P. Chatterton. 2004. Eaglewood ở Papua New Guinea (Quản lý tài nguyên ở Châu Á-Thái Bình Dương Tài liệu số 51). Canberra, ANU. https://openresearch-repository.anu.edu.au/bitstream/1885/39956/2/2532-01.2004-05-03T05:44:55Z.xsh
-
Haq, Z. 1968. Thương mại liên khu vực và quốc tế ở Ả Rập thời tiền Hồi giáo. Nghiên cứu Hồi giáo 7(3): 207–232.
-
Harbaugh, H. 1855. Những cây trong kinh thánh: VII-Aloe. The Guardian: Tạp chí hàng tháng vi(v): 153–154.
-
Harris, JA 1744. Navigantium atque itinerantium bibliotheca: Một bộ sưu tập đầy đủ các chuyến đi và hành trình bao gồm hơn sáu trăm tác giả chân thực nhất tập 2. London: T. Woodard & Co.
-
Hashim, YZHY, PG Kerr, P. Abbas và HM Salleh. 2016. Dó bầu spp. (trầm hương) là nguồn cung cấp các hợp chất có lợi cho sức khỏe: Đánh giá về cách sử dụng truyền thống, hóa thực vật và dược lý. Tạp chí Dân tộc học 189: 331–360.
-
Heldaas Seland, E. 2011. Vịnh Ba Tư hay Biển Đỏ? Hai trục trong thương mại Ấn Độ Dương cổ đại, đi đâu và tại sao. Khảo cổ học thế giới 43(3): 398–409.
-
Hoàng Hà, Q. và HT Nghi. 2011. Thúc đẩy hệ thống nông lâm kết hợp dựa vào trầm hương ở các tỉnh Bắc Trung Bộ của Việt Nam. Bản tin Nông Lâm Châu Á-Thái Bình Dương 38(38): 10–12.
-
Hou, D. 1960. Thymelaeaceae, Trong: Flora maleiana, ed. CGGJ Van Steenis, 1–48, Groningen, Hà Lan: Nhà xuất bản Wolters-Noordhoff.
-
———. 1964. Ghi chú về một số loài Dó bầu (Thymelaeaceae) ở châu Á. Blumea 12(2): 285–288.
-
Hourani, GF 1951. Người Ả Rập đi biển ở Ấn Độ Dương vào thời cổ đại và đầu thời trung cổ. Princeton, NJ: Nhà xuất bản Đại học Princeton.
-
Howes, FN 1950. Các loại nhựa lâu đời của khu vực Địa Trung Hải và công dụng của chúng. Thực vật học kinh tế 4(4): 307–316.
-
Hull, BZ 2008. Trầm hương, mộc dược và gia vị. Chuỗi cung ứng toàn cầu lâu đời nhất? Tạp chí Tiếp thị vĩ mô 28(3): 275–288.
-
Indicopleustes, C. 1897. Địa hình Kitô giáo của Cosmas, một tu sĩ Ai Cập. Được dịch từ tiếng Hy Lạp và được JW McCrindle biên tập với ghi chú và lời giới thiệu. Luân Đôn, Hiệp hội Hakluyt.
-
Ireland, JD 2005. Dinh thự của Sesavati: Vv 3.7 PTS: Vv 647–658. Văn bản Pali được biên tập và dịch bởi JD Ireland. https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/vv/vv.3.07.irel.html .
-
Islam, A. 2010. Hàng hải của người Ả Rập ở Ấn Độ Dương trước sự thống trị của người châu Âu ở Nam và Đông Nam Á: Một nghiên cứu lịch sử. Tạp chí của Hội Lịch sử Bạn bè lviii(2): 7–23.
-
Ismail, N., MHF Rahiman, MN Taib, M. Ibrahim, S. Zareen và SN Tajuddin. 2015. Đánh giá về trầm hương và xác định chất lượng của nó. Trong: Hội thảo nghiên cứu sau đại học về kiểm soát và hệ thống lần thứ 6 của IE 2015 (ICSGRC), 103–108. Shah Alam, Malaysia: Thư viện số IEEE Xplore.
-
Iyengar, RN 2003. Tính nhất quán bên trong của nhật thực và vị trí hành tinh trong Mahābhārata. Tạp chí Lịch sử Khoa học Ấn Độ 38(2): 77–115.
-
Ju-Kua, C. (1911). Chau Ju-Kua: Tác phẩm của ông về thương mại Trung Quốc và Ả Rập trong thế kỷ 12 và 13, có tựa đề Chu-fan-chi. Được dịch từ tiếng Trung Quốc và chú thích bởi F. Hirth, và WW Rockhill. Thánh Petersberg: Học viện Khoa học Hoàng gia.
-
Jung, D. 2011. Giá trị của trầm hương. Những phản ánh về việc sử dụng và lịch sử của nó ở Nam Yemen. Trong: Kỷ yếu hội thảo: Việc sử dụng thảo dược trong thực hành chữa bệnh của người Yemen. Ngày 25–26 tháng 9 năm 2009. Halle, Đức: HeiDOK .
-
Kahl, O. 2011. Bảng dược lý của Rhazes. Tạp chí Nghiên cứu Semitic 56(2): 367–399.
-
Kearney, M. 2004. Ấn Độ Dương trong lịch sử thế giới. New York: Routledge.
-
Keay, J. 2006. Con đường gia vị: Một lịch sử. Los Angeles, CA: Nhà xuất bản Đại học California.
-
Keith, AB 1914. Bộ Veda của trường phái Yajus da đen có tựa đề Taittiriya sanhita (Yajur Veda), do Arthur Berriedale Keith dịch. Cambridge, MA, Nhà xuất bản Đại học Harvard. https://www.ignaciodarnaude.com/espiritualismo/Vedas,Yajur%20Veda.pdf
-
King, A. 2007. Việc buôn bán xạ hương và vùng Cận Đông trong thời kỳ đầu thời trung cổ . (Luận án Tiến sĩ Triết học), Đại học Indiana, Bloomington, IN.
-
———. 2015. Dược liệu mới của truyền thống Hồi giáo: Bối cảnh tiền Hồi giáo. Tạp chí của Hiệp hội Phương Đông Hoa Kỳ 135(3): 499–528.
-
Koller, J., U. Baumer, Y. Kaup, H. Etspüler và U. Weser. 1998. Việc ướp xác được sử dụng ở Vương quốc Cổ. Thiên nhiên 39(6665): 343–344.
-
Kubeczka, K.-H. 2016. Lịch sử và nguồn nghiên cứu tinh dầu. Trong: Sổ tay khoa học công nghệ và ứng dụng tinh dầu, eds. KHC Baser và G. Buchbauer, Boca Raton, FL: CRC Press.
-
Lach, DF 1905. Châu Á trong tiếp thị của Châu Âu, tập. 1, quyển 2. Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago.
-
Lanciani, R. 1892. Pagan và Christian Rome. Cambridge, Vương quốc Anh: Nhà xuất bản Riverside.
-
Lardos, A., J. Prieto-Garcia và M. Heinrich. 2011. Nhựa và gôm trong các văn bản lịch sử về bệnh iatrosophia từ Síp—Một cách tiếp cận thực vật và y học-dược học. Biên giới trong Dược lý 2(32): 1–26.
-
Leidy, DP và DK Strahan. 2010. Trí tuệ thể hiện: Tác phẩm điêu khắc Trung Quốc, Phật giáo và Đạo giáo tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. New York: Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.
-
Levey, M. 1961. Ibn Mäsawaih và chuyên luận của ông về các chất thơm đơn giản: Nghiên cứu về lịch sử dược lý học tiếng Ả Rập I. Tạp chí Lịch sử Y học và Khoa học Đồng minh 16(4): 394–410.
-
Li, T. 1998. Nguyễn Cochinchina: Miền Nam Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII Ithaca, New York: Nhà xuất bản Chương trình Đông Nam Á, Đại học Cornell.
-
Lias, S., NAM Ali, M. Jamil, AM Jalil và MF Othman. (2016). Phân biệt dầu trầm hương nguyên chất và hỗn hợp thông qua mũi điện tử kết hợp với bộ phân loại k-NN kfold. Trong: Hội nghị châu Á lần thứ 11 về cảm biến hóa học 20, eds. Noor, M., AYM Shakaff, AH Adom, N. Miura, CW Lin, A. Zakaria, A. Tuantranont, SK ZaAba, R. Ngadiran, WY Chung, A. Harun, SM Mamduh, N. VanHieu, LM Kamarudin, NAH Zahri và S. Zakaria, 63–68, Amsterdam: Khoa học Elsevier.
-
Liebig, M. 2014. Arthaśāstra của Kauṭilya: Một văn bản cổ điển về nghệ thuật quản lý nhà nước và một nguồn tài nguyên khoa học chính trị chưa được khai thác. Heidelberg Papers in South Asian and Comparative Politics: Working Paper , 74. http://archiv.ub.uni-heidelberg.de/volltextserver/17144/2/Heidelberg%20Papers_74_Liebig_revised.pdf
-
Liu, X. 1994. Ấn Độ cổ đại và Trung Quốc cổ đại: Trao đổi thương mại và tôn giáo, AD 1–600 Delhi: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
———. 2010. Con đường tơ lụa trong lịch sử thế giới. New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
Liu, Y., H. Chen, Y. Yang, Z. Zhang, J. Wei, H. Meng, W. Chen, J. Feng, B. Gan, X. Chen, Z. Gao, J. Huang, B . Chen và H. Chen. 2013. Kỹ thuật tạo trầm hương nguyên cây: Một kỹ thuật mới hiệu quả để sản xuất trầm hương chất lượng cao ở cây Dó bầu được trồng . Phân tử 18(3): 3086–3106.
-
Lucas, A. 1930. Mỹ phẩm, nước hoa và hương ở Ai Cập cổ đại. Tạp chí Khảo cổ học Ai Cập 16(1/2): 41–53.
-
Lucas, SC 2008. Các chủ đề chính của hadith. La Bàn Tôn Giáo 2(2): 226–239.
-
Marian [người đóng góp blog cho Dịch vụ Cứu hộ Olfatory]. 2011. Top 10 mukhallat (dầu nước hoa Ả Rập). Ngày 25 tháng 10 năm 2011. https://olfactoryrescueservice.wordpress.com/2011/10/25/top-ten-mukhallats/ . Truy cập: ngày 12 tháng 11 năm 2015.
-
Masudi, H. 1877. Les thảo nguyên d’or. Được dịch vào năm 1861 bởi C. Barbier de Meynard và Abel Pavet de Courteille. Paris: A L’Imprimerie Impériale.
-
Mathews, RH 1974. Từ điển Trung-Anh (Từ điển Trung-Anh được biên soạn cho Phái bộ Nội địa Trung Quốc). Cambridge, MA: Nhà xuất bản Đại học Harvard.
-
Matthioli, PA 1554. Sinensis medici: Commentarii in sex libros Pedacii Dioscoridis Anazarbei de materia medica. [Với phiên bản Latinh của văn bản Dioscorides của J. Ruellius]. Balthasard Arnoullet.
-
McClintock, J. và J. Strong. 1867. Bách khoa toàn thư về văn học thần học và giáo hội trong Kinh thánh, tập 1. New York: Nhà xuất bản Harper & Brothers.
-
McHugh, J. 2011. Cây hương của xứ ngọc lục bảo: Văn hóa vật chất kỳ lạ của Kāmaśāstra. Tạp chí Triết học Ấn Độ 39(1): 63–100.
-
———. 2012. Gỗ đàn hương và xác thối: Mùi trong tôn giáo và văn hóa Ấn Độ. Oxford, Anh: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
McKenna, DJ và K. Hughes. 2014. Kinh thánh về hương: Hương thơm thực vật vượt qua văn hóa, y học và tâm linh thế giới. New York: Routledge.
-
McLaughlin, R. 2008. Mối quan hệ tơ lụa: Mối liên hệ giữa La Mã cổ đại và Trung Quốc. Lịch sử ngày nay 58(1): 34–41.
-
Miller, JI 1969. Việc buôn bán gia vị của Đế chế La Mã. Oxford, Anh: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
-
Moeran, B. 2009. Làm hương liệu: Sản xuất và tiêu thụ hương ở Nhật Bản. Tổ chức Con người 68(4): 439–449.
-
Mohamed, R. và SY Lee, 2016a. Trầm hương: Khoa học đằng sau hương thơm. Singapore: Springer.
-
———. 2016b. Giữ gìn hình thức: Đẳng cấp và chất lượng Trầm hương. Trong: Trầm hương: Khoa học đằng sau hương thơm, ed. Rozi Mohamed, 149–167, Singapore: Springer.
-
Mohamed, R., PL Jong và AK Kamziah. 2014. Cấy nấm tạo trầm ở cây Dó bầu non trong vườn ươm. Tạp chí Nghiên cứu Lâm nghiệp 25(1): 201–204.
-
Morita, K. 1992. Sách hương: Thưởng thức nghệ thuật sử dụng hương thơm truyền thống của Nhật Bản. Tokyo: Kodansha quốc tế.
-
Morris, ET 1984. Nước hoa: Câu chuyện về nước hoa từ Cleopatra đến Chanel. New York: Những đứa con của Charles Scribner.
-
Sahih Hồi giáo. nd. Bộ sưu tập Sunnah và Hadith. http://www.usc.edu/org/cmje/religious-texts/hadith/ . Truy cập: ngày 19 tháng 2 năm 2016.
-
Nakashima, EMN, MTT Nguyễn, QL Trần và S. Kadota. 2005. Khảo sát thực tế nghề trồng trầm hương ở đảo Phú Quốc, Việt Nam. Tạp chí Y học cổ truyền 22(5): 296–300.
-
Newton, AC và T. Soehartono. 2001. CITES và việc bảo tồn các loài cây: Trường hợp cây dó bầu ở Indonesia. Tạp chí Lâm nghiệp Quốc tế 3(1): 27–33.
-
Ng, LT, YS Chang và AA Kadir. 1997. Đánh giá về các loài Aquilaria sản xuất agar (gaharu) . Tạp chí Lâm sản Nhiệt đới 2(2): 272–285.
-
Nunnamaker, AJ và CO Dhonau. 2015. Giải phẫu và ướp xác: Chuyên luận về khoa học và nghệ thuật ướp xác: Các phương pháp điều trị mới nhất và thành công nhất cũng như giải phẫu tổng quát liên quan đến chủ đề này. Istanbul: e-Kitap Projesi.
-
Osborne, L. 2014. Đang có tâm trạng chơi oud? Thị trấn và đất nước, tập. 126. New York: Tạp chí Hearst, một bộ phận của Hearst Communications, Inc.
-
Trang, T. và W. Awarau. 2012. Hiệu suất của việc cấy cây giống trầm hương ( Aquilaria crassna ) được cải thiện nhờ bóng mát và phân bón. Sinh thái và quản lý rừng 265: 258–269.
-
Paoli, GD, DR Peart, M. Leighton và I. Samsoedin. 2001. Đánh giá sinh thái và kinh tế của lâm sản ngoài gỗ gỗ gaharu ở Vườn Quốc gia Gunung Palung, Tây Kalimantan, Indonesia. Sinh học bảo tồn 15(6): 1721–1732.
-
Papageorgopoulou, C., N. Shved, J. Wanek và FJ Ruhli. 2015. Mô hình hóa ướp xác của người Ai Cập cổ đại trên mô người tươi: Các khía cạnh vĩ mô và mô học. Kỷ lục giải phẫu-Những tiến bộ trong giải phẫu tích hợp và sinh học tiến hóa 298(6): 974–987.
-
Parker, G. 2008. Sự hình thành Ấn Độ thuộc La Mã. Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Peacock, DPS, ACS Peacock và D. Williams. 2006. Thức ăn cho thần linh: Ánh sáng mới về nghề buôn bán hương cổ. Oxford, Vương quốc Anh: Sách Oxbow.
-
Penchala, PG, M. Neelima và V. Pammi Satyanrayanashastry. 2008. Quan điểm lịch sử về việc sử dụng nước hoa và các sản phẩm có mùi thơm trong văn học Ấn Độ cổ đại. Khoa học cổ xưa về sự sống 28(2): 33–39.
-
Persoon, GA 2008. Trồng ‘gỗ của các vị thần’: Sản xuất trầm hương ở Đông Nam Á. Trong: Trồng cây nhỏ để phát triển nông thôn và dịch vụ môi trường: Bài học từ Châu Á, tập. 5, biên tập. DJ Snelder và RD Lasco, 245–262, Dordrecht, Hà Lan: Springer.
-
Pierce, DC 1969. Trung đạo của truyện Bổn Sanh. Tạp chí Văn hóa Dân gian Mỹ 82(325): 245–254.
-
Pires, T. 1944. Suma Oriental của Tome Pires: Một tường thuật về phương Đông, từ Biển Đỏ đến Trung Quốc, viết ở Malacca và Ấn Độ vào năm 1512–1515. Được dịch từ MS tiếng Bồ Đào Nha trong Bibliothèque de la Chambre des Députés, Paris, ed. A. Cortesao, tập. 1. Luân Đôn: Hội Hakluyt.
-
Prasad, PC 1977. Ngoại thương và thương mại ở Ấn Độ cổ đại. New Delhi: Ấn phẩm Abhinav.
-
Prinsep, J. 1834. Các bảng biểu hữu ích, tạo thành phụ lục cho Tạp chí của Hiệp hội Châu Á: Phần đầu tiên, tiền xu, trọng lượng và thước đo của Ấn Độ thuộc Anh. Calcutta: Nhà xuất bản truyền giáo Baptist.
-
Rahman, M., NM Nath, S. Sarker, M. Adnan và M. Islam. 2015. Các khía cạnh quản lý và kinh tế của việc trồng dó bầu Roxb. ở Bangladesh. Lâm nghiệp quy mô nhỏ 14(4): 459–478.
-
Rasool, S. và R. Mohamed. 2016. Tìm hiểu sự hình thành trầm hương và những thách thức của nó. Trong: Trầm hương: Khoa học đằng sau hương thơm, ed. R. Mohamed, 39–56, Singapore: Springer.
-
Rhind, JP 2014. Hương thơm và sức khỏe: Chất thơm thực vật và ảnh hưởng của chúng đến tâm lý. Luân Đôn: Rồng hát.
-
Rimmel, E. 1865. Sách về nước hoa. Luân Đôn: Chapman và Hall.
-
Samaddar, JN 1911. Quan hệ thương mại của Ấn Độ cổ đại. Tạp chí của Hiệp hội Nghệ thuật Hoàng gia 59 (3064): 903–909.
-
Sandison, AT 1963. Việc sử dụng natron trong ướp xác ở Ai Cập cổ đại. Tạp chí Nghiên cứu Cận Đông 22(4): 259–267.
-
Sangareswari, M., KT Parthiban, SU Kanna, L. Karthiba và D. Saravanakumar. 2016. Vi khuẩn nấm liên quan đến sự hình thành trầm hương. Tạp chí Khoa học Thực vật Hoa Kỳ 7: 1445–1452.
-
Schafer, EH 1963. Những quả đào vàng của Samarkand. Berkeley, CA: Nhà xuất bản Đại học California.
-
Schoff, WH 1922. Lô hội. Tạp chí của Hiệp hội Phương Đông Hoa Kỳ 42: 171–185.
-
Scott, SP 1932. Bản tóm tắt hoặc các bài báo của Justinian. Cincinatti, OH: Công ty Tín thác Trung ương.
-
Shamasastry, R. 1915. Arthashastra của Kautilya. http://libarch.nmu.org.ua/bitstream/handle/GenofondUA/19273/f2c8936431b9587a3448e1b3d8eff8e8.pdf?sequence=1
-
Hiro, M. 1998. Đại Việt và thương mại Biển Đông: Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15. Crossroads: Tạp chí liên ngành về nghiên cứu Đông Nam Á 12(1): 1–34.
-
Shizhen, L. 2003. Tóm tắt dược liệu: Bencao gangmu . Bắc Kinh, Trung Quốc: Nhà xuất bản Ngoại ngữ.
-
Smith, GF 1993. Chính tả gia đình—Aloeaceae vs Aloaceae. Đơn vị phân loại 42(1): 87–90.
-
Smith, GF và EMA Steyn. 2004. Phân loại họ Aloaceae. Trong: Chi Aloe , ed. T. Reynolds, 14–35, Boca Raton, FL: CRC Press.
-
Smith, FP và GA Stuart. 2003. Dược liệu Trung Quốc: Phiên bản hiện đại của cẩm nang cổ điển thế kỷ XVI. Mineola, NY: Ấn phẩm Dover.
-
Soehartono, T. và AC Newton. 2002. Thương mại gaharu ở Indonesia: Có bền vững không? Thực vật học kinh tế 56(3): 271–284.
-
Stargardt, J. 2001. Đằng sau những cái bóng: Dữ liệu khảo cổ học về thương mại đường biển hai chiều giữa Tuyền Châu và Satingpra, Nam Thái Lan, Thế kỷ 10–14. Trong: Trung tâm thương mại thế giới: Hàng hải Tuyền Châu, 1000–1400, ed. A. Schottenhammer, 309–394, Leiden, Hà Lan: Brill.
-
———. 2014. Thương mại Ấn Độ Dương trong thế kỷ thứ chín và thứ mười: Nhu cầu, khoảng cách và lợi nhuận. Nghiên cứu Nam Á 30(1): 35–55.
-
Strabo. 1930. Địa lý Strabo HL Jones, trans., vol. viiii. Cambridge, MA: Thư viện cổ điển Loeb.
-
Thurkill, MF 2009. Mùi của sự thánh thiện: Sự khác biệt giữa thánh thiện trong Cơ đốc giáo và Hồi giáo thời kỳ đầu. Nghiên cứu Hồi giáo so sánh 3(2): 133–144.
-
Tielel, PA 1885. Chuyến hành trình của John Huyghen van Linschoten đến Đông Ấn. Từ bản dịch tiếng Anh cũ năm 1598, W. Phillip, dịch giả. Luân Đôn: Whiting & Co.
-
Turner, J. 2004. Spice: Lịch sử của sự cám dỗ. New York: Sách cổ điển.
-
Unschuld, PU và Z. Zhang. 2014. Từ điển ben cao gang mu, tập 1: Thuật ngữ bệnh lịch sử Trung Quốc. Berkeley, CA: Nhà xuất bản Đại học California.
-
Villiers, J. 2001. Rất nhiều cây bạch đàn: Việc buôn bán gỗ thơm Đông Nam Á ở Ấn Độ Dương và Trung Quốc, 500 TCN – 1500 SCN. Vòng tròn vĩ đại 23(2): 24–43.
-
Warmington, EH 1928. Thương mại giữa Đế quốc La Mã và Ấn Độ. Cambridge, Anh: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
———. 1974. Thương mại giữa Đế chế La Mã và Ấn Độ, tái bản lần thứ 2. Luân Đôn: Curzon Press Ltd.
-
Watson, A. 1985. Bản tóm tắt của Justinian. Philadelphia, PA: Nhà xuất bản Đại học Pennsylvania.
-
Webber, H. 1812. Những câu chuyện về phương Đông, tập 1: Chứa những đêm Ả Rập và những trò giải trí mới của những đêm Ả Rập. Edinburgh, Vương quốc Anh: John Ballantyne và Co.
-
Whelan, C. 2014. Kansai cool: Hành trình vào trung tâm văn hóa Nhật Bản. Singapore: Nhà xuất bản Tuttle.
-
Worwood, VA 2013. Thiên đường thơm: Các khía cạnh tâm linh của hương thơm và liệu pháp mùi hương. Luân Đôn: Ngôi nhà ngẫu nhiên.
-
Wyn, LT và NA Anak. 2010. Gỗ làm cây: Đánh giá về hoạt động buôn bán trầm hương (gaharu) ở Malaysia. Petaling Jaya, Selangor, Malaysia: GIAO THÔNG Đông Nam Á.
-
Yin, Y., L. Jiao, M. Dong, X. Jiang và S. Zhang. 2016. Tài nguyên gỗ, nhận dạng và sử dụng trầm hương ở Trung Quốc. Trong: Trầm hương: Khoa học đằng sau hương thơm, ed. Rozi Mohamed, 21–38, Singapore: Springer.
-
Yoshnobu, S. 1983. Sung ngoại thương: Phạm vi và tổ chức. Trong: Trung Quốc trong số những người bình đẳng: Vương quốc Trung Hoa và các nước láng giềng, thế kỷ 10 đến thế kỷ 14, ed. M. Rossabi, 89–115, Berkley, CA: Nhà xuất bản Đại học California.
-
Yule, H. 1871. Cuốn sách của Ser Marco Polo: Liên quan đến các vị vua và những điều kỳ diệu của phương Đông, tập 2. London: John Murray, Phố Albermarle.
-
Yule, H. và AC Burnell. 1903. Hobson-jobson: Một bảng chú giải các từ và cụm từ thông tục Anh-Ấn, và các thuật ngữ tương tự, từ nguyên, lịch sử, địa lý và diễn ngôn. Luân Đôn: John Murray.
-
Yunjun, C. 2013. Văn hóa nước hoa của Trung Quốc và Đài Loan: Báo cáo cá nhân. Tạp chí của Hiệp hội Hoàng gia Châu Á (loạt ba) 23(1): 127–130.
-
Zhang, L., WY Brokelman và MA Allen. 2008. Phân tích ma trận để đánh giá tính bền vững: Cây nhiệt đới Aquilaria crassna , một nguồn trầm hương bị săn trộm nặng nề. Bảo tồn sinh học 141(6): 1676–1686.
-
Zhang, XL, YY Liu, JH Wei, Y. Yang, Z. Zhang, JQ Huang, HQ Chen và YJ Liu. 2012. Sản xuất trầm hương chất lượng cao từ cây Dó bầu bằng công nghệ cảm ứng trầm hương nguyên cây. Thư hóa học Trung Quốc 23(6): 727–730.
-
Zohar, A. 2003. Việc buôn bán hương, nước hoa và gia vị cổ xưa. Trong: Người Nabatean ở Negev (bằng tiếng Do Thái với tóm tắt bằng tiếng Anh), ed. R. Rosenthal-Heginbottom, 61–66, Haifa: Bảo tàng Hecht.
-
Zohar, A. và E. Lev. 2013. Xu hướng sử dụng nước hoa và hương ở vùng Cận Đông sau cuộc chinh phục của người Hồi giáo. Tạp chí của Hiệp hội Hoàng gia Châu Á 23(1): 11–30.
-
Zohary, M. 1982. Thực vật trong Kinh thánh. New York: Nhà xuất bản Đại học Cambridge.
-
Zumbroich, TJ 2012. Từ nước thơm miệng đến nước hoa khiêu dâm: Ý nghĩa văn hóa xã hội đang phát triển của hạt nhục đậu khấu, quả chùy và đinh hương ở Nam Á. Tạp chí Y học Ấn Độ , 5, 37–97. http://rjh.ub.rug.nl/eJIM/article/view/24743/22193
Mộc Nhiên Phát: Chuyên giao lưu, buôn bán nội thất và đồ trang trí nghệ thuật được chế tác bằng gỗ quý tự nhiên.
- Tinh dầu Trầm Hương Thượng Hạng – Mộc Nhiên Phát #kỳnam #mộcnhiênphát #tramhuong #trầmhương
- Tác phẩm nghệ nhân Di Lặc Trầm Hương chìm loại 1 cần được bảo tồn 🥰 — ở Thủ đô Hà Nội.
- Nói về Trầm Hương : Lưu ý kiểm tra keo 502 đối với hàng Trầm Hương xông đốt | Mộc Nhiên Phát
- Super king chìm loại 1. Ông Vua của Trầm Hương 🤤 – Nghệ thuật chế tác Trầm Hương Mộc Nhiên Phát
- Một kỳ quan trong thế giới Trầm Hương ❤️ – 0948664831 Zalo